Ai đã gây ra thảm họa 30/4/1975?: “Kiến trúc sư cuộc chiến VN, William Averell Harriman (1891-1986) là thủ phạm ra lịnh cho CIA giết TT Ngô Ðình Diệm và là soạn giả vở bi-kịch ngày 30/4/75”
Cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ... cấp Trung Đoàn BV đã vượt qua xa lộ Harriman (Ðường-559) và bắt đầu gọi là leo thang chiến tranh theo lộ-đồ phối hợp của kiến trúc sư Harriman đem quân đội tác chiến Mỹ qua VN cũng vào năm nầy, để tập trận với mưu đồ lợi nhuân cho Hội đồng Kỹ nghệ chiến tranh (War Industries Board) gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ mà cái Nhóm WIB cho rằng: “công nhân phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có đồng dôla, còn là Lính phải đổ chút ít xương máu mới hưởng được đồng đôla, chớ không thể tập trận tại quê nhà, để tìm cơ hội bị gạch phấn trắng gọi là bị tử thương, loại ra khỏi vòng chiến để nằm nhà với vợ con. Thế nên những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi (thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan! để chuẩn bị lộ đồ rút lui bằng Air tikets booked trước theo lịch trình phải nâng đở hảng hàng không thế hệ Jet còn phôi-thai không bị Bankruptcy) của chiến tranh được giới chóp bu của hệ thống truyền thông Hoa Kỳ, đa số gốc Đại học Yale quản trị, khai thác triệt qua đơn đặt hàng, để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác, nhứt là ngay tại kinh-đô văn hoá thế giới Paris
Tướng độc nhởn cò-mồi, Moshe Dayan, Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái, đột ngột tự ý qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến "hành quân" chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam (axiom-3: The US could not have won the war under any circumstances) đúng vào điểm mốc thời gian Mỹ chuẩn bị rút quân) vì không thể thắng cuộc chiến này được mà hãy để cho Hà Nội chiếm miền nam (axiom-1: There was never a legitimate non-communist government in Saigon) thì mới thắng được Cộng Sản, trong khi nhị trùng Mafia Lê Đức Thọ đã biết trước sẽ thôn tính miền nam, nên 1960 (lúc nầy Mỹ chưa qua) khi thành lập MTGPMN đã tuyên bố cương quyết chống chế độ Mỹ Diệm kèm kẹp, đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, lúc nầy quân đội Mỹ chưa qua mà đã bị đánh cho cút rồi. Thật rất là vô lý vì sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày, mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy! Dayan là cò mồi của Mỹ) dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson và miền Nam VN; Tiếc thay sau này và mới năm ngoái đây, vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần "khai tử" miền Nam! [Israeli General Moshe Dayan on Patrol with US Marines - South Vietnam 1966] Phong trào phản chiến càng lên cao, Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thăng cử làm Tổng Thống
Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng. Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam; Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau: "Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất". Tương tự, Kissinger đã trấn an T.T Nixon là: “Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, rồi sau đó thì chẳng ai cần đếch gì nữa. Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng” lời nói cũa cựu đại sứ Lào và hiện là phụ tá hành chánh cho Kissinger như ám chĩ miền Nam là bãi tha-ma (free-zone) sau một thời gian làm nơi thí nghiệm đủ loại vũ khí và miền Bắc trở lại thời kỳ đồ-đá, ngay đến thủ đô Hà Nội mà phải thắp đèn dầu leo-lét. Sau khi rút lui lại chơi trò vũ khí khí-tượng (weather weaponry) để cho nguoi Việt ăn Bo Bo một thời gian kiệt quệ rồi mới chịu bôm thuốc kinh tế thị trường sau, có nghiã là tái thiết tối đa
Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù qua lại đi đêm như con thoi của con-rối Kissinger do sự chủ đạo của thế lực Permanent Government [Skull and Bones].
Cũng theo lộ trình Political Business lại tiếp nối qua “giai đoạn-3 Eurasian” vùng Trung-Á – Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6/10/1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây; Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ con rối của Bones Permanent Government ra lệnh Kissinger thuyết phục gần như ép buộc TT Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều như trước. Sau vụ Cambodia Nixon đang chới với Power Act gần như mất hết quyền hành, nhưng khi PG cần, thì Nixon vẩn mạnh lại như thường; Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận điều nầy lập năm vừa qua 1972, Tướng Giáp cũng mất chức vì nướng 100.000 quân BV, vì cứ tưởng bở (còn quá sớm chưa phải đúng thời điểm (decent interval) chiếm miền nam theo lộ đồ Eurasian)
Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Skull and Bones nhìn rất xa và đang làm bộ với động-thái Hoa Kỳ bị sa lầy ở chiến trường Việt Nam , nhưng sự thật đổi vùng hoạt động qua giai đoạn-3 Eurasian, nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam theo đúng lộ-đồ đã tín trước (axiom-1).
Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi, bởi vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái (Anti-Semitism). Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị phinh gạt; Điển hình, về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả (thí dụ : Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 ) lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam (chịu thua ! hay gài bẩy TQ? vì đang câu con cá to hơn “has bigger fish to fry”) Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kissinger bước vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam Hóa Chiến Tranh .
Về phía Cộng Sản Bắc Việt, ngoại trừ lợi thế sẵn có của đường lối độc tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân đạo dùng chiến thuật biển người hy sinh "nướng quân" hàng loạt trên chiến trường (theo nhận xét của Tướng Westmoreland !) họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới tình trạng "Đồng Minh tháo chạy" (từ ngữ theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đức!) bỏ rơi VNCH Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng Thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ (đã xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và A Phú Hản ! nhưng nó lại đi chệch lộ-đồ Eurasian) để không thể dể dàng rơi vào tay cộng sản như đã xảy ra trong ngày 30/4/1975. Nhưng khỗ nỗi chính sách không do tổng thống Mỹ mà do tập đoàn đại tư bản nắm giữ!
Đa số người Việt chúng ta đều có tâm tình thiện cảm với dân tộc Do Thái (một phần bị ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh "Về miền đất hứa / Exodus" của tác giả Leon Uris) vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu dũng cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ. Cũng trong cảm tình nồng nàn đó, Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang sức ra viết tác phẩm " Bài học Israel” (Do Thái) để nhắc nhở chúng ta nên noi gương vì sự trường tồn, thinh vượng dân tộc; Nhưng thực tế chính trị cho thấy tham vọng thủ đoạn của Do Thái sau khi tái lập quốc, nên chính ông đã không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề; Đó cũng là tâm trạng của tôi khi biết qua Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu của thế lực Do Thái khiến xảy ra thảm họa 30/4/1975 cho quê hương Việt Nam và dẩn tới hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng kế tiếp.
Tôi tin rằng cùng góp phần với Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong tiết lộ những bí ẩn về thảm họa 30/4/1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực để các sử gia hậu cận đại Việt Nam và thế giới mai sau không còn bị phĩnh gạt, sai lầm nữa. Mong thay!
thí dụ như hai biến cố trọng đại, khúc quanh trong lịch sử VN: Cuộc chiến thắng Ðiện Biên Phủ dưới đất 1954 và cuộc chiến thắng Ðiện Biên Phủ trên không 1972 bằng sự lừa gạt đồng minh 1954 bằng sự hứa can thiếp của B-29, và 1972 bằng B-52. Muc tieu sau cung la bien Viet Nam thanh mot nuoc Do Thai tai DNA de bao ve quyen loi cho My!
Để tiếp nối giai đoạn 3 “Eurasian Great Game”: Chín tháng sau hoà-đàm Paris, ngày 6/10/1973 mục tiêu chuyển hướng qua Trung Đông (Center Asia) bằng 6 chiếc tàu chở đạn-dược cũa Mỹ khi gần đến hải phận VN, bất thần có lệnh của Kissinger qua mật lệnh truyền từ tham mưu trưởng WSAG, Donald Rumsfeld buộc phải trở đầu chạy về Do Thái unload số đạn dược xuống nơi đó gấp
Câu trả lời là Màn-2 giai đoạn-2 về Á-Châu của siêu sách lược Eurasian đã tạm thời chấm dứt để qua Màn-3 Trung-Đông (Center Asia) như những định kiến và đáp số đã nêu dưới đây:
Nguyên nhân chính nào đã phải kéo dài tấn thảm kịch đến 30/4 mà Rumsfeld đặt tên là Cruel April, Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (vì đả có mưu đồ bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam theo định kiến-2 vì không có văn bản ngoại giao nào minh chứng) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH; Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Mỹ qua Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam, chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau: "Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất".
Tuy nhiên ỡ trong nước, tấn thảm kịch 30/4/1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi người Việt đã dự đoán bởi vì vụ xì căng đan Watergate tàn-độc dẫn tới sự từ chức của Tổng Thống Nixon vào ngày 9/8/1974 đã làm tê liệt mọi cố gắng để cứu vãng tình thế; Nhưng đã có trong lịch trình giãi đáp trước đây trên trục Chiến Tranh Lạnh của lý thuyết gia George F Kennan (1904-2005)
Tay sai Lê Đức Thọ được CIA và KGB điều vào nam lãnh đạo cuộc kháng chiến thay Lê Duẩn về Hà Nội làm Quyền Tổng bí thư để phát động lại chiến tranh lần thứ hai, qua trò chơi chiến tranh CIP/NLF
- Siêu chính phủ Mỹ có cuộc họp Hội Đồng An Ninh quốc gia (NSC) ngày 21/9/1960: (Thời chính phủ Eisenhower) đưa ra 3 định-kiến dưới đây với giãi pháp bằng 3 đáp số:
(1) Axiom-1: There was never a legitimate non-communist government in Saigon
(2) Axiom-2: The US had no legitimate reason to be involved in Vietnamese affaires
(3) Axiom-3: The US could not have won the war under any circumstances
- Ba tháng sau, tay sai Lê Đức Thọ tuyên bố ngày 20/12/1960 thành lập MTGPMN cũng 3 đáp số:
(1) Quyết tâm đấu tranh giãi phóng miền nam (đối chỏi lại axiom-1)
(2) Cương quyết tiêu diệt ngụy-quyền kèm kẹp của Mỹ/Diệm (đối chỏi axiom-2)
(3) Quyết tâm đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào (đối chỏi axiom-3)
Đó là lý do tại sao D-Rumsfeld quả quyết: “Miền Nam bù-nhìn, Miền Bắc yêu nước”
Thế lực nào ở Hoa Kỳ dám đứng sau kế hoặch bỏ rơi miền Nam!? - Theo tôi nghiên cứu cho biết trên chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt, đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái, đặc biệt trong biến cố 911 không có người Do thái nào chết trong số trên 3000 người?
- Trên dòng lịch sử Hoa Kỳ, Cộng-đồng người Mỹ gốc Ái-Nhĩ-Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ tổng thống.
- Bên cạnh đó Cộng-đồng người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ nhứt là trong Đại Hội Đồng Kỹ Nghệ Chiến Tranh (War Industrues Board) Họ gài được nhiều nhân sự vào bên Hành- pháp cũng như Lập-pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như Ngoại giao, Quốc phòng và Tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp Bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng; Vì vậy, thế lực của Cộng-đồng người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái
Tham dự Hòa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố-vấn An-ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng ("đi đêm") với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt (Eurasian) như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái và Ái Nhỉ Lan (Giòng họ: Harrimans and Bushes)
Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng-đồng người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow... với tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm Cơ quan Tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới (World Jewish Congress - từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái) Ngoài ra, chúng ta cũng nhận thấy được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright (hai người nầy là thiên tài trong chuyên môn đơn giản là vậy, nhưng cũng chỉ là công cụ về mặt nổi trên chính trường như một chính khách quyền năng (freewheeling diplomat).
Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908-1986) nhân dịp tái bản tác phẩm Bên Giòng Lịch Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam. Riêng dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ từ Âu qua Á Châu) nhứt là hòa đàm Paris (axiom-3, mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn) nhưng theo tôi sau khi nghiên cứu là W.A Harriman muốn đưa TQ vào ghế LHQ để tuân thủ luật pháp nên Harriman mới cách chức tư lệnh TBD của tướng Mc Arthur và xoá bỏ miền nam vì nơi đây sẽ xãy ra cuộc xung đột về dầu-khí tại thềm lục địa từ đảo Điếu Ngư đến Hoàng Sa, Trường Sa. Để chứng minh điều nầy: Nhân dịp sinh nhựt thứ 90 của W.A Harriman, người em út của Kennedy là Ed-Kennedy đã nói: “Thế kỷ 21 chúng ta sẽ hưỡng một không khí an-bình là nhờ sáng kiến của Harriman trong thế kỷ bạo loạn 20 vừa qua”
Như vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực skull and Bones thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua ‘con rối’ Kissinger. Tại sao thế lực Skull and Bones muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam!? Thế lực Skull and Bones tại Hoa Kỳ, đối với tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên sau khi được biết đến vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trường Hoa Kỳ là do 20 năm nghiên cứu trong thư viện. Qua nghiên cứu, tôi công nhận thấy giáo sư Huy và Cha Luận có một phần đúng; Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 tổng thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website: http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Irish_ Americans) mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan) Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem website http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Jewish_ American_ politicians# List) Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Skull and Bones tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như:
- Trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông Cao Quang Ánh).
- Trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton
- Trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford
- Trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton
- Trong CIA có Tổng giám đốc George H W Bush thời Gerald Ford, John M. Deutch dưới thời TT Reagan.
- Trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.
Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, Wall Street, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình, và điện ảnh; Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trọng nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Donald Rumsfeld, Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford... Khôi hài nhứt là các tên tài tử ciné của Landing-Zones trong hành quân Lam-Sơn 719: LIZ, SOPHIA, LOLO, HOPE (xem website: http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Jewish_ American_ entertainers) Họ biết rõ rằng nắm giữ được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho WIB-Bones. Vì thế tôi đã nhiều lần nhắc nhở CIA chỉ là hạng nhì sau Truyền thông Văn hoá, cứ nhìn vào mùa bầu cử tổng thống thì rỏ; Skull and Bones còn điều khiển một phần lớn các viện Nghiên cứu Chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai của chính phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của War Industries Board Bones với quỹ Đen tại ngân hàng Thụy Sĩ
Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960-62, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ, mặc dù là người số 3 trong bộ ngoại giao, nhưng là freewheeling diplomat) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891-1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Skull and Bones muốn bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh cho lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975 để hoàn thành định kiến-1 (axiom-1)
Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình, Thế lực Skull and Bones lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng bằng công cụ số một Truyền thông Văn hóa
Tướng cò-mồi độc nhởn Moshe Dayan, Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái, đột ngột qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với TQLC Mỹ. Sau chuyến "hành quân" chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn cò-mồi Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được, nếu như muốn thắng CS, hãy để CS chiếm miền nam (rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày, mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy, quả là có mách nước trước cho một sách lược có lộ-đồ sẳn: chích cho dân Việt một mũi thuốc miễn nhiễm Cộng Sản)
Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson buộc Johnson không được tái ứng cử kỳ hai, đây là một hiện tượng kinh-dị hiếm có trong lịch sử Hoa Kỳ, để chắc ăn, họ ám sát người em TT Kennedy liền sau đó làm cho Đệ Nhứt phu nhân khiếp đãm phải lập lại “…Dù ai có đề nghị chồng tôi cũng cương quyết không ra tái ứng cử”
Sự thật gần đây, vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam trong đó có tôi ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần "khai tử" miền Nam trước mắt, nhưng đúng 50 năm sau (1973-2023) quả thật đúng như vậy, là một nước VNCH lớn hơn và mạnh hơn trên các thành viên Đông Nam Á, trong khi ấy các thế hệ dính dấp vào cuộc chiến đã nằm sâu dưới lòng đất vì định luật mọi việc rồi sẽ bỏ lại sau lưng
Phong trào phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải đi đến quyết định không ra tái ứng cử kỳ hai vì nhiều áp lực của Skull and Bones, liền sau đó quyền lực Skull and Bones mướn Mafia làm thịt người em của Kennedy cũng y chang như người anh (vì Robert Kennedy muốn rút hết quân Mỹ về nước nếu thắng cữ và kế đến phải bịt đầu mối vì R. Kennedy đã tìm ra trong đầu người anh có thêm loại đạn của một tay súng khác) buộc Đệ nhứt phu nhân phải tuyên bố: “Dù ai có đề nghị nhà tôi tái ứng cử cũng big sorry”
Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử; Vì vậy thế lực Bones đã chọn và gài được thiên tài Kissinger từ năm 1957 làm tư-vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York vừa hạ đo ván W.A Harriman để chiếm ghế) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa, nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thắng cử làm Tổng Thống. Nixon lên ngôi làm cho Bones rất lo ngại. Thấy vậy, Bones bèn đưa con gà nhà Kissinger, gọi là trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh và sẽ kiêm luôn Bộ trưởng ngoại giao vào thời điểm cần thiết (decent interval) Dù rằng trong thời gian tranh cữ Kissinger hạ nhục Nixon không tiếc lới. Thế mới biết quyền lực ghê gớm của bọn Skull and Bones đặt để gần như ép buộc Nixon phải nhận Kissinger; Thế lực Skull and Bones còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái và Ái Nhỉ Lan vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925-1999)... với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu ép buộc Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh, sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam trong thời gian chuẩn bị hoàn thành định kiến-3 (axiom-3)
Đến năm 1971, theo sự chủ đạo của Skull and Bones, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon, đánh dấu giai đoạn lịch sử chấm dứt 20 năm thù địch cũng như sau nầy theo lộ đồ Việt Nam cũng chấm dứt 20 năm thù địch (1975-1995) Rồi thì hai nước Tư bãn Đỏ nầy sẽ mua máy bay Boeing làm một món quà giao-hảo. Tốt đẹp cả làng!
Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, rồi thì tới VNCH, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng. Có nghĩa là khi Mỹ rút quân và cho phép Hà Nội đem hết quân vào nam để tróng miền Bắc, Trung Quốc đừng làm ẩu đem quân chiếm Hà Nội lấy cớ Hà Nội vi phạm Hiệp định Paris và giúp cho MTGPMQ lên ngôi, làm như vậy bể sách lược cũa Skull and Bones. Kissinger cũng thừa hiểu TQ không dại gì làm vậy vì Mỹ sẽ giúp TQ trở nên một cường quốc kinh tế và mạnh về khoa học kỹ thuật sau nầy
Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27/1/1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của siêu chính phủ qua Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam, chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau: "Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất". Tương tự Kissinger đã trấn an T.T Nixon là: “Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau (Decent Interval) sau đó thì …chẳng ai cốc-cần gì nữa . Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi tha ma hoang vắng … rồi ăn Bo Bo trừ Cơm! Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán trước của HĐANQG (NSC) ngày 21/9/1960: (Thời chính phủ Eisenhower) qua 3 đáp số dưới đây:
(1) Axiom-1: There was never a legitimate non-communist government in Saigon
(2) Axiom-2: The US had no legitimate reason to be involved in Vietnamese affaires
(3) Axiom-3: The US could not have won the war under any circumstances
Để tiếp nối giai đoạn 3 “Eurasian Great Game”: ngày 6/10/1973 mục tiêu chuyển hướng qua Trung Đông (Center Asia) Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến tiếp nối theo sách lược Eurasian là: “Jom Kippur” vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Việt Nam như vậy đủ rồi, Skull and Bones cần tiếp nối War-Business, lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng làm sao Skull and Bones để mất nước Do-Thái, liền tức khắc Donald Rumsfeld bấm nút Robot Kissinger thuyết phục Nixon nỗ lực can thiệp tối đa giúp Do Thái, nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận
Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi, bởi vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Skull and Bones hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái và Ái Nhĩ Lan (Anti-Semitism) Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị phĩnh gạt dài dài, một cách tinh vi qua truyền thông văn hoá cố tính bóp méo sự thật kể cả những tài liệu mật nhưng không mật tí nào cả. Thí dụ Cụ Hồ là giả, là người Tàu, Nixon đòi cắt đầu TT Thiệu, NCK là người giả giải phẩu, Johnson ra lệnh giết Kennedy, TT Diệm buôn Á phiện bị Kennedy ra lệnh giết …Điển hình, về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả (thí dụ: Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" - “Vietnam, A 35 Year Retrospective Conference” Tại Washington D.C, vào ngày 9.4.2010, lầm lẫn hoặc cố tình nhàu nặng cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam. Vì đang câu con cá to hơn (“has bigger fish to fry”)
Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ lúc Harriman nói chuyện với Lê Đức Thọ tại Paris với những lời vàng thước ngọc giao miền nam cho Hà Nội rồi Harriman rời khỏi vỉnh viễn sân khấu chính trị vào tuổi 78, George H W Bush (Bush Cha) lên ngôi, biết hậu quả sẽ không đẹp gì, là thãm-kịch, nên giao cho Kissinger bước vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 bằng đội bóng mà Kissinger là Quarterback, còn Donald Rumsfeld là Linebacker, còn George H W Bush mới thật sự là ông Bầu Coach. Cho nên thế giới không ai biết gì cả chỉ đoán mò mà thôi; Nên chúng ta thừa cơ hội internet mà nghiên cứu và suy diển liên hệ với thực tế trên vài chục ngàn cuốn sách nói về lịch sử và triều đại nước Mỹ thì rỏ tại Library of Congress, vào những mục cần thiết cho chứng cớ biện minh mà thôi
TRƯƠNG VĂN VINH
Câu trả lời là Màn-2 giai đoạn-2 về Á-Châu của siêu sách lược Eurasian đã tạm thời chấm dứt để qua Màn-3 Trung-Đông (Center Asia) như những định kiến và đáp số đã nêu dưới đây:
Nguyên nhân chính nào đã phải kéo dài tấn thảm kịch đến 30/4 mà Rumsfeld đặt tên là Cruel April, Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (vì đả có mưu đồ bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam theo định kiến-2 vì không có văn bản ngoại giao nào minh chứng) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH; Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Mỹ qua Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam, chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau: "Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất".
Tuy nhiên ỡ trong nước, tấn thảm kịch 30/4/1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi người Việt đã dự đoán bởi vì vụ xì căng đan Watergate tàn-độc dẫn tới sự từ chức của Tổng Thống Nixon vào ngày 9/8/1974 đã làm tê liệt mọi cố gắng để cứu vãng tình thế; Nhưng đã có trong lịch trình giãi đáp trước đây trên trục Chiến Tranh Lạnh của lý thuyết gia George F Kennan (1904-2005)
Tay sai Lê Đức Thọ được CIA và KGB điều vào nam lãnh đạo cuộc kháng chiến thay Lê Duẩn về Hà Nội làm Quyền Tổng bí thư để phát động lại chiến tranh lần thứ hai, qua trò chơi chiến tranh CIP/NLF
- Siêu chính phủ Mỹ có cuộc họp Hội Đồng An Ninh quốc gia (NSC) ngày 21/9/1960: (Thời chính phủ Eisenhower) đưa ra 3 định-kiến dưới đây với giãi pháp bằng 3 đáp số:
(1) Axiom-1: There was never a legitimate non-communist government in Saigon
(2) Axiom-2: The US had no legitimate reason to be involved in Vietnamese affaires
(3) Axiom-3: The US could not have won the war under any circumstances
- Ba tháng sau, tay sai Lê Đức Thọ tuyên bố ngày 20/12/1960 thành lập MTGPMN cũng 3 đáp số:
(1) Quyết tâm đấu tranh giãi phóng miền nam (đối chỏi lại axiom-1)
(2) Cương quyết tiêu diệt ngụy-quyền kèm kẹp của Mỹ/Diệm (đối chỏi axiom-2)
(3) Quyết tâm đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào (đối chỏi axiom-3)
Đó là lý do tại sao D-Rumsfeld quả quyết: “Miền Nam bù-nhìn, Miền Bắc yêu nước”
Thế lực nào ở Hoa Kỳ dám đứng sau kế hoặch bỏ rơi miền Nam!? - Theo tôi nghiên cứu cho biết trên chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt, đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái, đặc biệt trong biến cố 911 không có người Do thái nào chết trong số trên 3000 người?
- Trên dòng lịch sử Hoa Kỳ, Cộng-đồng người Mỹ gốc Ái-Nhĩ-Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ tổng thống.
- Bên cạnh đó Cộng-đồng người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ nhứt là trong Đại Hội Đồng Kỹ Nghệ Chiến Tranh (War Industrues Board) Họ gài được nhiều nhân sự vào bên Hành- pháp cũng như Lập-pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như Ngoại giao, Quốc phòng và Tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp Bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng; Vì vậy, thế lực của Cộng-đồng người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái
Tham dự Hòa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố-vấn An-ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng ("đi đêm") với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt (Eurasian) như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái và Ái Nhỉ Lan (Giòng họ: Harrimans and Bushes)
Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng-đồng người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow... với tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm Cơ quan Tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới (World Jewish Congress - từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái) Ngoài ra, chúng ta cũng nhận thấy được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright (hai người nầy là thiên tài trong chuyên môn đơn giản là vậy, nhưng cũng chỉ là công cụ về mặt nổi trên chính trường như một chính khách quyền năng (freewheeling diplomat).
Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908-1986) nhân dịp tái bản tác phẩm Bên Giòng Lịch Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam. Riêng dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ từ Âu qua Á Châu) nhứt là hòa đàm Paris (axiom-3, mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn) nhưng theo tôi sau khi nghiên cứu là W.A Harriman muốn đưa TQ vào ghế LHQ để tuân thủ luật pháp nên Harriman mới cách chức tư lệnh TBD của tướng Mc Arthur và xoá bỏ miền nam vì nơi đây sẽ xãy ra cuộc xung đột về dầu-khí tại thềm lục địa từ đảo Điếu Ngư đến Hoàng Sa, Trường Sa. Để chứng minh điều nầy: Nhân dịp sinh nhựt thứ 90 của W.A Harriman, người em út của Kennedy là Ed-Kennedy đã nói: “Thế kỷ 21 chúng ta sẽ hưỡng một không khí an-bình là nhờ sáng kiến của Harriman trong thế kỷ bạo loạn 20 vừa qua”
Như vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực skull and Bones thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua ‘con rối’ Kissinger. Tại sao thế lực Skull and Bones muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam!? Thế lực Skull and Bones tại Hoa Kỳ, đối với tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên sau khi được biết đến vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trường Hoa Kỳ là do 20 năm nghiên cứu trong thư viện. Qua nghiên cứu, tôi công nhận thấy giáo sư Huy và Cha Luận có một phần đúng; Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 tổng thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website: http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Irish_ Americans) mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan) Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem website http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Jewish_ American_ politicians# List) Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Skull and Bones tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như:
- Trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông Cao Quang Ánh).
- Trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton
- Trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford
- Trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton
- Trong CIA có Tổng giám đốc George H W Bush thời Gerald Ford, John M. Deutch dưới thời TT Reagan.
- Trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.
Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, Wall Street, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình, và điện ảnh; Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trọng nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Donald Rumsfeld, Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford... Khôi hài nhứt là các tên tài tử ciné của Landing-Zones trong hành quân Lam-Sơn 719: LIZ, SOPHIA, LOLO, HOPE (xem website: http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Jewish_ American_ entertainers) Họ biết rõ rằng nắm giữ được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho WIB-Bones. Vì thế tôi đã nhiều lần nhắc nhở CIA chỉ là hạng nhì sau Truyền thông Văn hoá, cứ nhìn vào mùa bầu cử tổng thống thì rỏ; Skull and Bones còn điều khiển một phần lớn các viện Nghiên cứu Chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai của chính phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của War Industries Board Bones với quỹ Đen tại ngân hàng Thụy Sĩ
Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960-62, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ, mặc dù là người số 3 trong bộ ngoại giao, nhưng là freewheeling diplomat) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891-1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Skull and Bones muốn bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh cho lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975 để hoàn thành định kiến-1 (axiom-1)
Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình, Thế lực Skull and Bones lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng bằng công cụ số một Truyền thông Văn hóa
Tướng cò-mồi độc nhởn Moshe Dayan, Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái, đột ngột qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với TQLC Mỹ. Sau chuyến "hành quân" chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn cò-mồi Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được, nếu như muốn thắng CS, hãy để CS chiếm miền nam (rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày, mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy, quả là có mách nước trước cho một sách lược có lộ-đồ sẳn: chích cho dân Việt một mũi thuốc miễn nhiễm Cộng Sản)
Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson buộc Johnson không được tái ứng cử kỳ hai, đây là một hiện tượng kinh-dị hiếm có trong lịch sử Hoa Kỳ, để chắc ăn, họ ám sát người em TT Kennedy liền sau đó làm cho Đệ Nhứt phu nhân khiếp đãm phải lập lại “…Dù ai có đề nghị chồng tôi cũng cương quyết không ra tái ứng cử”
Sự thật gần đây, vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam trong đó có tôi ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần "khai tử" miền Nam trước mắt, nhưng đúng 50 năm sau (1973-2023) quả thật đúng như vậy, là một nước VNCH lớn hơn và mạnh hơn trên các thành viên Đông Nam Á, trong khi ấy các thế hệ dính dấp vào cuộc chiến đã nằm sâu dưới lòng đất vì định luật mọi việc rồi sẽ bỏ lại sau lưng
Phong trào phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải đi đến quyết định không ra tái ứng cử kỳ hai vì nhiều áp lực của Skull and Bones, liền sau đó quyền lực Skull and Bones mướn Mafia làm thịt người em của Kennedy cũng y chang như người anh (vì Robert Kennedy muốn rút hết quân Mỹ về nước nếu thắng cữ và kế đến phải bịt đầu mối vì R. Kennedy đã tìm ra trong đầu người anh có thêm loại đạn của một tay súng khác) buộc Đệ nhứt phu nhân phải tuyên bố: “Dù ai có đề nghị nhà tôi tái ứng cử cũng big sorry”
Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử; Vì vậy thế lực Bones đã chọn và gài được thiên tài Kissinger từ năm 1957 làm tư-vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York vừa hạ đo ván W.A Harriman để chiếm ghế) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa, nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thắng cử làm Tổng Thống. Nixon lên ngôi làm cho Bones rất lo ngại. Thấy vậy, Bones bèn đưa con gà nhà Kissinger, gọi là trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh và sẽ kiêm luôn Bộ trưởng ngoại giao vào thời điểm cần thiết (decent interval) Dù rằng trong thời gian tranh cữ Kissinger hạ nhục Nixon không tiếc lới. Thế mới biết quyền lực ghê gớm của bọn Skull and Bones đặt để gần như ép buộc Nixon phải nhận Kissinger; Thế lực Skull and Bones còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái và Ái Nhỉ Lan vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925-1999)... với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu ép buộc Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh, sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam trong thời gian chuẩn bị hoàn thành định kiến-3 (axiom-3)
Đến năm 1971, theo sự chủ đạo của Skull and Bones, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon, đánh dấu giai đoạn lịch sử chấm dứt 20 năm thù địch cũng như sau nầy theo lộ đồ Việt Nam cũng chấm dứt 20 năm thù địch (1975-1995) Rồi thì hai nước Tư bãn Đỏ nầy sẽ mua máy bay Boeing làm một món quà giao-hảo. Tốt đẹp cả làng!
Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, rồi thì tới VNCH, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng. Có nghĩa là khi Mỹ rút quân và cho phép Hà Nội đem hết quân vào nam để tróng miền Bắc, Trung Quốc đừng làm ẩu đem quân chiếm Hà Nội lấy cớ Hà Nội vi phạm Hiệp định Paris và giúp cho MTGPMQ lên ngôi, làm như vậy bể sách lược cũa Skull and Bones. Kissinger cũng thừa hiểu TQ không dại gì làm vậy vì Mỹ sẽ giúp TQ trở nên một cường quốc kinh tế và mạnh về khoa học kỹ thuật sau nầy
Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27/1/1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của siêu chính phủ qua Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam, chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau: "Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất". Tương tự Kissinger đã trấn an T.T Nixon là: “Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau (Decent Interval) sau đó thì …chẳng ai cốc-cần gì nữa . Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi tha ma hoang vắng … rồi ăn Bo Bo trừ Cơm! Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán trước của HĐANQG (NSC) ngày 21/9/1960: (Thời chính phủ Eisenhower) qua 3 đáp số dưới đây:
(1) Axiom-1: There was never a legitimate non-communist government in Saigon
(2) Axiom-2: The US had no legitimate reason to be involved in Vietnamese affaires
(3) Axiom-3: The US could not have won the war under any circumstances
Để tiếp nối giai đoạn 3 “Eurasian Great Game”: ngày 6/10/1973 mục tiêu chuyển hướng qua Trung Đông (Center Asia) Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến tiếp nối theo sách lược Eurasian là: “Jom Kippur” vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Việt Nam như vậy đủ rồi, Skull and Bones cần tiếp nối War-Business, lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng làm sao Skull and Bones để mất nước Do-Thái, liền tức khắc Donald Rumsfeld bấm nút Robot Kissinger thuyết phục Nixon nỗ lực can thiệp tối đa giúp Do Thái, nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận
Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi, bởi vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Skull and Bones hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái và Ái Nhĩ Lan (Anti-Semitism) Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị phĩnh gạt dài dài, một cách tinh vi qua truyền thông văn hoá cố tính bóp méo sự thật kể cả những tài liệu mật nhưng không mật tí nào cả. Thí dụ Cụ Hồ là giả, là người Tàu, Nixon đòi cắt đầu TT Thiệu, NCK là người giả giải phẩu, Johnson ra lệnh giết Kennedy, TT Diệm buôn Á phiện bị Kennedy ra lệnh giết …Điển hình, về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả (thí dụ: Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" - “Vietnam, A 35 Year Retrospective Conference” Tại Washington D.C, vào ngày 9.4.2010, lầm lẫn hoặc cố tình nhàu nặng cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam. Vì đang câu con cá to hơn (“has bigger fish to fry”)
Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ lúc Harriman nói chuyện với Lê Đức Thọ tại Paris với những lời vàng thước ngọc giao miền nam cho Hà Nội rồi Harriman rời khỏi vỉnh viễn sân khấu chính trị vào tuổi 78, George H W Bush (Bush Cha) lên ngôi, biết hậu quả sẽ không đẹp gì, là thãm-kịch, nên giao cho Kissinger bước vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 bằng đội bóng mà Kissinger là Quarterback, còn Donald Rumsfeld là Linebacker, còn George H W Bush mới thật sự là ông Bầu Coach. Cho nên thế giới không ai biết gì cả chỉ đoán mò mà thôi; Nên chúng ta thừa cơ hội internet mà nghiên cứu và suy diển liên hệ với thực tế trên vài chục ngàn cuốn sách nói về lịch sử và triều đại nước Mỹ thì rỏ tại Library of Congress, vào những mục cần thiết cho chứng cớ biện minh mà thôi
TRƯƠNG VĂN VINH
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.