Thursday, August 4, 2011

Tướng Nguyễn Chi Vịnh là ai?



Quan hệ nồng thắm càng tăng lên tay đôi giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, liên quan tới vai trò của Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á và trên Biển Đông tiếp tục là đề tài được truyền thông phương Tây và của chính Trung Quốc bàn bạc. Sự quan hệ tay ba Việt, Mỹ, Trung Quốc, qua phân tích cũa các phản ứng Bắc Kinh về việc Việt nam và Washington tăng cường giao lưu về quân sự bên cạnh nhiều lĩnh vực khác liên quan tới an ninh, quốc phòng và chính trị lẫn kinh tế đang có những bước tiến đột phá chưa từng có. Theo chúng ta nghĩ về các vấn đề châu Á của nhiều tờ báo thiên tả trên thế giới, chuyến thăm bốn ngày trung tuần tháng Tám của siêu hàng không mẫu hạm USS George Washington tới Việt Nam, chính là một thông điệp cho Bắc Kinh: "Thông điệp chính trị rõ ràng này là Hoa Kỳ cũng có phần tại nơi mà Trung Quốc cho là ao nhà của nhà mình." Hoa Kỳ quyết liệt chống lại bất cứ việc sử dụng sức mạnh nào nhằm giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ ở biển Nam Trung Hoa được gọi là South China Sea, như điều mà Trung quốc huyênh hoang cho rằng: “Thật nghịch lý khi cho rằng South China Sea mà lại không phãi thuộc sỡ hữu cũa Trung Quốc? Ðó là lý do hàng thế kĩ nay người ta hay nói “cái lý của kẻ mạnh” thế nên TQ đả xập bẩy của Mĩ qua cáo già Henry Kissinger đả ổm-ờ “cái gì của China thuộc về China” có nghĩa món quà tặng cho TQ cứ chiếm Hoàng-Sa Mỹ ngó lơ cho TQ cứ chiếm, nhưng nhớ một điều là “khi Hà Nội cưởng chiếm miền nam là đừng nên lấy cớ đem quân TQ vào giữ sân sau, nếu TQ muốn trở thành siêu cường qua Mĩ giúp khoa học kỷ thuật và vốn liếng làm ăn thì nên ngoan ngoản nghe lời của Mĩ!”
Nhưng tình hình hiện nay khá gây cấn khi Trung Quốc đã ngay lập tức nâng tầm quan trọng của tuyến bố chủ quyền tại biển Nam Trung Hoa lên tầm "lợi ích nòng cốt," khi đặt vấn đề chủ quyền ở vùng biển này ngang hàng với các tuyên bố của họ với Đài Loan và Tây Tạng. Về phía Việt Nam được Mỹ hà-hơi với lời lẽ cứng rắn, Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh (người của TQ nhưng làm việc ngầm mật thiết với Mỹ) đã kiếm cớ cho chuyến thăm Bộ Quốc phòng Trung Quốc ngay trong tháng Tám 2010. Mỹ bật đèn Xanh ngay sau tuyên bố của giới ngoại giao và quân sự Washington được đưa ra tại các diễn đàn khác nhau ở các quốc gia vùng Đông Nam Á, Trung Quốc đã có những động thái tái khẳng định chủ quyền và vị thế của mình một cách cứng rắn, như những thông điệp được đưa ra qua truyền thông nội địa. Nhưng tôi đoán chắc vì lý do an ninh nội bộ không giữ nỗi bỡi phãn gián CIA (ba ông đại sứ Mỹ và một Tổng lãnh sự người Mỹ gốc Việt đã làm việc tại TQ như một cán bộ tình báo, một thời gian cần thiết trước khi đãm nhiệm tại VN) TQ đành sẽ buộc phãi mềm èo như con Bún mà thôi! Mấy ngày qua chĩ miệng Hùm gan Sứa cho sướng cái miệng!
Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh – Thứ trưởng bộ Quốc phòng Việt Nam – Ông là ai?
Ông Nguyễn Chí Vịnh một con người bí ẩn nhưng có vô số nhiều lời đồn đại trên các trang mạng có thể đã làm nhiều điều sai trái trong quá khứ (không sai mà ngầm theo sự chỉ dẩn của CIA) và đã bị nhiều cựu sĩ quan và tướng lãnh chỉ trích. Nhưng đả đến lúc chín mùi trong sự chuyển hướng chính sách trước mắt, ông Nguyễn Chí Vịnh đã thi hành công tác ngoại giao/chính trị của Bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam một cách hoàn hảo xứng hợp với chức vụ thứ trưởng Bộ quốc phòng của ông… cũng nhờ khôn ngoan đi theo đúng trục lộ đồ sách lược toàn cầu của Mĩ
Hơn một tháng qua, kể từ cuộc họp hằng năm của Diễn Đàn Asean Forum (Asean Regional Forum – ARF) quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ, Trung quốc và Việt Nam có một chuyển dịch quan trọng. Bà bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Hillary R. Clinton tuyên bố trong một cuộc họp báo tại Hà Nội ngày 23/7/2010 rằng “Hoa Kỳ xem việc tự do lưu thông, tự do lui tới và sự tôn trọng luật lệ quốc tế trên Biển Đông phù hợp với quyền lợi của Hoa Kỳ”. Đồng thời bà Clinton nói Hoa Kỳ ủng hộ các cuộc thương thuyết đa phương để giải quyết các tranh chấp về Biển Đông
Lời tuyên bố này đánh dấu sự thay đổi lập trường của Hoa Kỳ từ một thái độ bàng quang thù địch (hostility) từ năm 1975 đến 1995 (20 năm thù địch) nay đổi lập trường quan tâm vào cuộc. Lập trường VN theo Hoa Kỳ được sự ủng hộ của 11 nước khác (trong đó có Việt Nam) trong số 27 nước tham dự nhưng chưa đủ bán phần?

Nhìn cung cách báo chí Việt Nam chạy tin (vốn chỉ được phép đi trong vòng lề do đảng cộng sản vạch ra) Trung quốc thừa biết đảng cộng sản Việt Nam đã đứng về bên nào trong cuộc tranh chấp quyền lợi trên Biển Đông. Và nhìn sự ủng hộ nồng nhiệt chính sách mới của Hoa Kỳ của các nước trong vùng Đông Nam Á châu, Trung quốc giận dữ tưởng chừng như bị phục kích, (nhưng sự thật là bị rơi vào cái bẩy của Mĩ giăng ra từ tu chánh án “1970 Cooper Church”) nên hô hào đường "lưỡi bò" mà TQ ngang ngược tuyên bố
Không gì làm Trung quốc uất ức bằng khi thấy chính chiếc hàng không mẫu hạm George Washington vừa tham dự cuộc tập trận trên miền Bắc ngoài khơi bờ biển Nam Hàn chạy xuống Biển Đông đi qua vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam (nơi Trung quốc từng tuyên bố thuộc chủ quyền của Trung quốc) cách bờ biển Việt Nam khoảng 200 hải lý đón nhận bộ đội và viên chức Việt Nam từ Đà Nẵng được máy bay Hoa Kỳ đưa ra thăm viếng và xem diễn tập.
Dư luận, từ những nhà đấu tranh dân chủ trong nước đến cộng đồng Việt Nam hải ngọai rất lưu tâm đến biến chuyển ngoại giao ngoạn mục này nhưng họ có biết đâu trong lộ đồ Eurasian Great Game, đây là thời điểm “Roll Back” của Mỉ và đặc biệt quan sát mọi động thái lạ lung khó hiểu của Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, biến đổi vừa khôn ngoan vừa cứng rắn như có chiếc đủa thần hướng dẩn. Thứ trưởng bộ Quốc phòng, một nhân vật được xem là thân Trung quốc bay lau nay nhưng lại có thái độ đổi ngược làm ngạc nhiên các chính khách
Tìm hiểu chủ trương của đảng cộng sản Việt Nam qua sự quan sát các động thái của Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh là quan sát đúng đối tượng. Tuy nhiên có một vấn đề: Hợp tác quân sự Việt - Mĩ khiến TQ "nóng mặt" Tướng Nguyễn Chí Vịnh từ bao năm nay mang nhãn hiệu thân Trung quốc, nhưng thật ra Vịnh là tam trùng (triple cross) như Phạm Xuân Ẩn. Trong khi đảng cộng sản Việt Nam mang nhãn hiệu nhu nhược qua các đối sách đối với việc lấn chiếm đất liền, biển đảo của Trung quốc, nên các suy diễn từ sự quan sát động thái của đảng cộng sản Việt Nam và của tướng Nguyễn Chí Vịnh lần này có thể thiếu tính vô tư vì bị ám ảnh bởi chiêu bài nghe đã quen tai và hợp nhĩ với cộng đồng.
Cần tạm quên các nhãn hiệu, nhìn vào bức tranh chính trị và ngoại giao đang diễn tiến trước mắt để suy đoán tình hình một cách thực tiễn may ra có được một cái nhìn sát sự thật. Từ đó có thái độ hành xử thích đáng giúp bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ và an ninh đất nước đồng thời tạo đòn bẩy đẩy mạnh cuộc đấu tranh cho dân chủ và tự do tại Việt Nam vào thời điểm thuận lợi nhứt cho VN trong ống kính của Mĩ.
Lý do nào Tướng Nguyễn Chí Vịnh, con trai của tướng Nguyễn Chí Thanh (viên tướng duy nhất dám coi thường tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng tướng Giáp có tiếng mà không có miếng, nhưng thật ra cả hai đều tranh nhau tỏ thái độ là công cụ trung thành của Mĩ, chỉ có khác là Giáp OSS móc nối 1945, còn Vịnh là ngay sau khi Gorbachov khuyên Hà Nội nên theo Mĩ để được hùng mạnh, ngặc nổi trong ống kính thì chưa tới thời điểm mà phải để cho VN chuốt lấy thêm nhiều kinh nghiệm đau thương, vì thế Tướng Vịnh đả gây nên nhiều tội ác triệt hạ các thành phần theo Mĩ trong phương sách :khổ nhục kế”) làm việc theo sự cố vấn của CIA đổi ngược lại như vụ Bauxit, không khác gì CIA làm việc với MTGPMN, VNCH và CSBV ngày xưa vậy thôi) Vịnh từng nắm Tổng Cục 2 làm việc rất gần gũi với tình báo Hoa Nam của Trung quốc. Quá trình ông Nguyễn Chí Vịnh làm việc với tình báo Trung quốc là một quá trình do nhu cầu khi Việt Nam cần dựa vào Trung quốc sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ (CIA không muốn chụp thời cơ mà chưa đến thời điẻm decent interval kéo VN về phía Mĩ mà muốn VN phải chuốt thêm một thời gian dài với kinh nghiệm đau thương với TQ, có nghĩa Hà Nội không nghe theo lời Gorbachov. Vịnh buộc phải thân Trung quốc do nhu cầu công tác ngầm với CIA – nhưng có điều đáng khen là chưa có bằng chứng Vịnh sẵn sàng bán nước cho Trung quốc.

Trong thời gian chiến tranh trước năm 1975, tại miền Nam có «Đặc ủy Trung ương Tình báo» trên danh nghĩa là một cơ sở tình báo Việt Nam nhưng hoàn toàn được Trung ương Tình báo Hoa Kỳ (CIA) tài trợ và điều khiển, vì thế CBCS mới vào nằm cạnh tổng thống Diệm và Thiệu. Nhưng không vì vậy các vị từng làm giám đốc Đặc Ủy Trung ương Tình báo – tuy là những nhân vật thân Hoa Kỳ và được Hoa Kỳ đề nghị vào chức vụ đó – đều là người không biết phục vụ cho quyền lợi của Việt Nam Cộng Hòa. Đảng cộng sản Việt Nam cũng vậy, Đảng độc tài, đảng tham nhũng, đảng làm băng hoại xã hội, đảng đã tỏ ra nhu nhược không bảo vệ nổi ngư dân đánh cá trong vùng đặc quyền kinh tế của mình theo luật quốc tế, nhưng cấp lãnh đạo chóp bu của đảng cộng sản Việt Nam không đến nổi «ngu» đồng một lòng đem nước bán cho Trung quốc. Có dấu hiệu từ nhiều năm qua họ trăn-trở tìm một con đường thoát nanh vuốt của Trung quốc. Và khi Hoa Kỳ thay đổi chính sách Đông Á – Thái Bình Dương là họ mừng húm chụp lấy thời cơ ngay, nhưng thật ra cũng vì chính sự an- nguy của Hoa Kỳ nữa (vì điều dễ hiểu không bao giờ Mĩ muốn TQ nắm vòi xăng, đó là lý do Mĩ gây chiến ở Trung Ðông) thì đây là một cơ hội cho những người lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam mở mắt và chụp lấy thời cơ

Động thái chuyển hướng ngoại giao của đảng cộng sản Việt Nam không thể nhầm lẫn được (ngoại trừ chúng ta nhắm mắt không muốn nhìn thấy vì thành kiến):
(1) Ủng hộ lời tuyên bố của bà Hillary Clinton tại Hà Nội
(2) Cho báo chí đăng tải đầy đủ chính sách mới của Hoa Kỳ tại Biển Đông
(3) Cho bộ đội và viên chức ra thăm mẫu hạm George Washington khi mẫu hạm này chạy qua vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam,
(4) Đón tiếp nồng hậu chiến hạm USS John S. McCain tại cảng Đà Nẵng
(5) Đặt tên con đường lớn dài 13 km chạy dọc bờ biển thành phố Đà Nẵng từ Tiên sa đến ranh giới tỉnh Quảng Nam là đường Hoàng Sa – Trường Sa trong một buổi lễ đóng tên đường được phổ biến rộng khắp, cấm nhắc lại tên China Beach trên biển Mỹ Khê
Tuy nhiên Hà Nội vẫn phải theo đuổi chính sách «cân đối» giữa Trung quốc và Hoa Kỳ. Và trong khi Trung quốc nghi ngờ, giận dữ, chất vấn, dọa nạt không ai tốt hơn đi làm công tác ngoại giao với Trung quốc bằng tướng Nguyễn Chí Vịnh, thân TQ?
Để chuẩn bị cho Hội nghị đầu tiên của các bộ trưởng quốc phòng của khối Asean cộng với 8 nước liên hệ gồm Liên bang Nga, Hoa Kỳ, Trung quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Nam Hàn, Úc và Tân Tây Lan (Asean Defense Ministers Meeting Plus – ADMM+) sẽ triệu tập tại Hà Nội trong hai ngày 11 & 12/10 năm nay, tướng Nguyễn Chí Vịnh có chương trình gặp đại diện quốc phòng của hai quốc gia chính yếu là Hoa Kỳ và Trung quốc để trao đổi quan điểm mà nếu không có mặt TQ là điều thất bại của VN
Ngày 17/8 ông Nguyễn Chí Vịnh gặp đại diện bộ quốc phòng Hoa Kỳ tại Hà Nội và ngày 25/8 ông gặp đại diện quốc phòng Trung quốc tại Bắc Kinh; Sau cuộc gặp gỡ tướng Nguyễn Chí Vịnh đã có một cuộc họp báo trả lời các câu hỏi khá hóc búa của đại diện báo chí thân Bắc Kinh (http://www.qdnd.Việt-Nam/QDNDSite/vi...8/Default.aspx) trong đó có câu hỏi quan trọng do Mạng Hoàn Cầu (Trung quốc) đặt ra: Hà Nội cho rằng, Trung Quốc có vai trò quan trọng đối với các nước ASEAN nói chung cũng như sự có mặt của Bộ Quốc phòng Trung Quốc có vai trò hết sức quan trọng trong diễn đàn ADMM+ nói riêng. Nói như thế trước hết vì Trung Quốc là một nước lớn, có nền kinh tế đứng thứ hai thế giới, là một nước đang phát triển mạnh mẽ và có vị trí địa lý nằm ngay gần với các nước ASEAN. Bên cạnh đó, lĩnh vực mà ADMM+ đang hướng tới là đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống; Đây là lĩnh vực mà Trung Quốc rất có kinh nghiệm, có trách nhiệm.
Về các phân tích cho rằng Mỹ đang tìm kiếm đồng minh quân sự tại khu vực này hay không, thì tướng Vịnh cho rằng không nên vội vàng khi đánh giá về chiến lược của các nước, nhất là các nước lớn. Về phần Việt Nam, theo Vịnh sẽ không bao giờ trở thành đồng minh quân sự của Mỹ. Và không chỉ với Mỹ, Việt Nam sẽ không trở thành đồng minh quân sự của bất kỳ quốc gia nào, chính sách quốc phòng của Đảng và Nhà nước thể hiện đồng lòng phương châm “ba không”:

(1) Không tham gia các liên minh quân sự, hoặc là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào;

(2) Không cho bất kỳ nước nào đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam;

(3) Không dựa vào nước này để chống nước kia (điều nầy CIA cố vấn để không bị là bải chiến địa bị tàn phá trước nhứt! Nhưng ai biết về sau nầy sẽ có nhiều thay đổi đột biến, chinh trị mà, nói một đường làm một nẻo?

Theo phân tích của Hà Nội đây là câu trả lời khéo léo nhất trong thế chuyển hướng hiện tại vừa thân Hoa Kỳ vừa làm yên lòng Trung quốc. Khi ông Nguyễn Chí Vịnh nói “chúng tôi sẽ không bao giờ trở thành đồng minh quân sự của Mỹ. Và không chỉ với Mỹ, Việt Nam sẽ không trở thành đồng minh quân sự của bất kỳ quốc gia nào.” ý của ông Nguyễn Chí Vịnh khá rõ rằng chính sách 3 không là “không” với cả Hoa Kỳ và Trung quốc
Trong bối cảnh chiến lược hôm nay tại Đông Á – Thái Bình Dương, chọn chính sách 3 không như trên là một sự lựa chọn đúng đắn. Việt Nam không cần phải liên minh quân sự trên giấy trắng mực đen với ai, Việt Nam không cần có căn cứ quân nước nào tại Việt Nam mới có thể hổ trợ Việt Nam nếu bị Trung quốc tấn công. Khi bị tấn công chỉ cần một lời kêu gọi chính thức của chính quyền Việt Nam, Hoa Kỳ và các nước khác trên thế giới vẫn có thể can thiệp như hồi Ðệ-2 thế chiến Mĩ nhảy vào. Nếu có chiến tranh, Mĩ cũng chơi Cha, cho những nước cò con đánh đấm nhau túi bụi rồi Mĩ mới nhảy vào giờ phút chót

Thêm vào việc nói ra chính sách 3 không như trên không nên được diễn dịch một cách sai lạc cố ý như là một chính sách “thân Tàu chống Mỹ”. Trái lại nếu xét nhu cầu đặt căn cứ tại Việt Nam, Trung quốc rất cần căn cứ Cam Ranh để dễ dàng thực hiện chính sách khống chế Biển Đông thì chính sách 3 không có thể làm buồn lòng Trung quốc hơn là Hoa Kỳ nếu đem cân nhắc? Trong mọi trường hợp không có một căn bản lý luận nào để phán đoán một cách cưỡng chế rằng lời tuyên bố của ông Nguyễn Chí Vịnh là do Trung quốc mớm như một số nhà bình luận trong cộng đồng Việt Nam nghĩ vậy (mà thật ra do Mi móm, đó là cái sâu sắc của câu hỏi, Tướng Vịnh nói như cái máy được điều chỉnh trước, qua một bộ óc viển tượng)

Một câu hỏi khác của Đài Tiếng Nói Việt Nam thường trú tại Bắc Kinh.

Hỏi: “Xung quanh mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong thời gian gần đây, một số báo chí nước ngoài, trong đó có báo chí Trung Quốc đã bình luận rằng Việt Nam đang muốn dựa vào Mỹ, lôi kéo Mỹ để kiềm chế và cân bằng với Trung Quốc, xin Thứ trưởng cho nhận xét về vấn đề này?”

Trả lời: “Câu hỏi của anh có hai khía cạnh, trước hết là Việt Nam có muốn dựa vào Mỹ và lôi kéo Mỹ hay không? Tôi khẳng định, Việt Nam không dựa và không lôi kéo Mỹ vào bất kỳ mục đích gì, đặc biệt là các mục đích về an ninh. Ý thứ hai là kiềm chế Trung Quốc? Việt Nam không bao giờ có ý định kiềm chế Trung Quốc ở bất kỳ lĩnh vực nào, ở thời điểm nào. Việt Nam vui mừng khi thấy Trung Quốc phát triển.
Sau khi tôi tham dự Đối thoại Quốc phòng Việt – Mỹ, báo chí cũng có câu hỏi gần giống như thế. Tức là, Trung Quốc phát triển mạnh như vậy, phát triển quốc phòng mạnh như vậy thì Việt Nam suy nghĩ gì? Tôi đã trả lời: Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có quan hệ đại cục rất tốt đẹp, cho nên trước sự phát triển của Trung Quốc, trong đó có phát triển quốc phòng, Việt Nam ủng hộ và vui mừng. Sự ủng hộ ấy xuất phát từ mong muốn và niềm tin rằng, Trung Quốc sẽ không sử dụng sức mạnh của mình để làm phương hại tới chủ quyền và lợi ích của các nước khác và cũng không sử dụng sức mạnh ấy làm phương hại tới hòa bình và ổn định của khu vực và trên thế giới, (là do tư tưởng khôn ngoan để tránh khỏi là bãi chiến trường đầu tiên?) Ví dụ, sức mạnh quốc phòng Trung Quốc mà tham gia tích cực vào ADMM+ trong cứu hộ, cứu nạn, cứu trợ thảm họa thì quả thật là điều tốt cho cả Trung Quốc lẫn khu vực. Mà sự thật Mĩ muốn chuyển mục tiêu một nước TQ hung cường dùng khoa học kỹ thuật để cùng các nước khác lo cho nhân loại về thãm hoạ thiên tai, môi trường sống, nhiệt độ trái đất tăng dần, bịnh hoạn và nghèo khó …

VN mong muốn báo chí thông tin trung thực, khách quan nhằm tăng cường quan hệ hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc, trong đó có quan hệ quốc phòng. Quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước nói chung và quan hệ quốc phòng nói riêng hiện nay có rất nhiều chuyện, nhiều vấn đề tích cực, nhiều tấm gương sáng. Về quan hệ quốc phòng, chúng tôi sẵn sàng chia sẻ thông tin với các bạn để chúng ta có được một cái nhìn đúng đắn, có thiện cảm và tin cậy lẫn nhau.”
Trong câu trả lời ông Nguyễn Chí Vịnh dùng chữ “phát triển quốc phòng” của Trung quốc và “quan hệ quốc phòng” giữa Việt Nam và Trung quốc nhưng trong bản tin sớm nhất bằng Anh ngữ của Tân Hoa Xã ngày 25/8 (do mạng Bauxit dịch ra Việt ngữ cùng ngày) Tân Hoa Xã cố tình viết chệch ra là phát triển quân sự và làm cho thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh trở thành đề tài chỉ trích của dư luận vi TQ thừa hiểu thâm ý quá khôn ngoan nầy do người ở phía sau móm lời trước
Trong ngôn ngữ ngoại giao “phát triển quốc phòng” và “phát triển quân sự” có ý nghĩa khác nhau. “Phát triển quốc phòng” có thể bao gồm sự phát triển các lĩnh vực ngoại giao, kinh tế, quân sự và có tính tự vệ, trong khi “phát triển quân sự” có tính “phóng tầm sức mạnh” (power projection) ra ngoài và đe dọa lân bang. Nếu tướng Nguyễn Chí Vịnh ủng hộ phát triển quân sự của Trung quốc thì quả ông quá ngây ngô

Người Việt trong và ngoài nước từng đấu tranh với đảng cộng sản Việt Nam độc tài để xây dựng tự do dân chủ cho Việt Nam. Mục tiêu đó không bao giờ thay đổi, nhưng hiện giờ trước mắt chúng ta có thêm một công tác khác là bảo vệ tổ quốc trước ý đồ xâm lăng của Trung quốc. Nếu đất nước rơi vào tay Trung quốc thì cuộc tranh đấu cho độc lập, dân chủ, tự do trở thành vô vọng. Cho nên chúng ta, ít nhất là khối người Việt hải ngoại cần tỉnh táo quan sát tình hình để nếu người cầm quyền trong nước có chính sách tích cực trong công cuộc chống xâm lăng của Bắc phương chúng ta cần nhanh chóng ủng hộ nên lắm thay


Ðả đến thời-điểm decent interval, tướng Vịnh sẽ điều hơp ban nhạc hoà âm không có tiếng súng mà chỉ những âm điệu nhịp nhàn qua các đối lực âm thanh trầm bổng cùng hoà chung nhịp với nhau như hồi VNCH, chỉ cần 72 tiếng chuyển tiếp êm đẹp bằng 3 tổng thống là xong ngay, Permanent Government không muốn tắm máu tại VN thêm một lần nửa, đó là điều tối quan trọng mà Mỹ luôn luôn làm ồn ào cho cái gọi là “Diển Tiến Hoà Bình” trong phần mềm thời hậu chiến (qua cuốn sách của sử gia, George C Herring “America and Vietnam: The Unending War (1991) Trong thời điểm 10 năm sau cùng “trù dập TQ” của thế chiến lược “Eurasian Great Game-1, Hoa Kỳ áp lực TQ phải đích thân áp đặt Bắc Hàn nằm trong cương toả của Nam hàn để thống nhứt) tướng Vịnh sẽ chịu trách nhiệm các biến-cố chuyển tiếp thể chế không đổ máu giữa Mafia VN, đảng Việt Tân và thành phần sinh viên trí thức chủ yếu là nhóm luật sư của Cù Huy Hà Vũ
      Tướng Vịnh là đứa con nuôi của Lê Ðức Thọ được thừa nhận 1969 sau khi Thọ gặp William Averell Harriman tại Paris Peace Talk, vì một lý do chính trị, B-52 đả làm chết tướng Nguyễn Chí Thanh do Hà Nội yêu cầu tiêu hủy một bịnh viện lớn nhứt tại tam biên để khỏi gây hoang man khi buộc phải đưa họ trở về bắc (trang 5/7 http://www.answers.com/topic/w-a-averell-harriman , lúc đó Ng-C-Vịnh được 12 tuổi. Harriman đưa ra nhửng lời nói như khuôn vàng thước ngọc cho Thọ, nên Thọ chẳng coi Kissinger ra gì, bằng chứng lời gởi gấm của Kissinger cho Thọ, khi giao miền nam cho Hà Nội, nhờ bỏ qua cho người bạn Kissinger là Nguyễn Xuân Phong trong phái đoàn VNCH, nhưng Thọ vẩn bị bắt đi ở tù như thường, (nhưng cũng được thả sau 5 năm) còn Bác Sĩ Nguyễn Ðang Quế thì không được đụng đến, và chờ ngày đi diện ODP và kế tiếp là HO, nhưng phải để cho họ làm “bản tự khai” (vì vậy Thiếu úy ở tù trên 3 năm – “Ði Mỹ”, còn Ðại tá ở tù 6 tháng – “Thích hợp chế độ”, Mỹ cũng hà tiện số người cho qua Mỹ?) Nhưng BS Quế muốn trở nên BS Madela nên phải bị bắt nhốt là đương nhiên
      Thọ được hứa sẽ làm tiểu-bá 3 nước Ðông Dương cho đến hết đời, và có quyền truyền ngôi cho ... có thể Nguyễn Chí Vịnh chăng? Thế nên, dù rằng Kissinger tuyên bố: “Peace is at hand” (hình tài liệu mật, trang 103 “The New Legion” Kissinger vui mừng cùng Lê Ðức Thọ nhảy múa vủ điệu (Sáo Diều trong mùa động đực” nhưng Thọ không yên tâm nên mới có chỉ một tháng sau, Kissinger tuyên bố Hà Nội vi phạm cái gì gì đó rồi oanh tạc 11 ngày đêm để tạo nên cuộc chiến thắng Ðiện Biên Phủ trên không, với trên 1300 hoả tiển SAM và không còn trái nào để bắn lên ... nhưng Mỹ quyết tình dành cho Hà Nội niềm hãnh diện ký hiệp định Hoà Bình Paris, nhưng quyết liệt không được đầu hàng dù rằng Hà Nội thắp đèn dầu như thời kỳ đồ đá (vì đầu hàng sẽ bể kế hoặch Eurasian “tàn phá để tái thiết” theo kinh tế gia người Anh Malthus)
      Cho nên ngày nay, tướng Nguyễn Chí Vịnh gáy lớn: VN đủ khả năng ngăn chặn bất kỳ thế lực nào, Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam cảnh báo rằng Việt Nam có “đủ mọi khả năng” để ngăn chặn bất kỳ thế lực nào chống lại nước mình, đúng vậy, duy chỉ có tướng Nguyễn Chí Vịnh là biết phương áng phải đấu với TQ như thế nào qua sự cố vấn của CIA về vũ khí đặc biệt mà khi cần VN sẽ dập phủ đầu TQ, ít nhứt là đập Tam Hiệp trên thượng nguồn sông Cửu Long, TQ sẻ lâm vào đại hồng thủy như tận thế, trong lúc cả thế giới tung hô VN tự vệ để giữ vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long không bị nước mặn thắm nhiễm môi trường nuôi sống nhân loại...

   Năm 1968 tại Paris, người cha nuôi của Nguyển Chí Vịnh (lúc nầy Vịnh được 11 tuổi) là Lê Ðức Thọ cũng được Harriman cho biết chắc chắn dù Mỹ có đem hơn nữa triệu quân vào VN cũng chĩ để huấn luyện sẳn sàng tác chiến, rồi cũng rút về theo như định kiến-3 (axiom-3: The US could not have won the war under any circumstances, US troops honorable withdraw in 1973 Paris Talk)
- Wall Street Journal: bắt đầu 2010, Mỹ cứng rắn trước thái độ bắt nạt của TQ (hầu như tiếng nói dứt khoát của Skull and Bones) Bài bình luận đăng trên tờ Wall Street Journal có đề cập đến thông điệp mạnh của Hoa Kỳ đối với cuộc tranh chấp biển Đông. Theo tôi nghĩ từ bấy lâu nay, tờ Wall Street nói ra có nghĩa là chính sách Mỹ và đúng vào lúc thời điểm Roll-back của Mỹ trở lại Thái Bình Dương

     Tại sao có cuộc chiến tranh Việt Nam? Mỹ muốn chơi trò Tam Quốc Chí tân thời, như chính sách đả minh định:
“Nước Mỹ không có người bạn lâu đời cũng không có kẻ thù truyền kiếp, quyền lợi, quyền lợi trên hết, và quyền lợi quyết định thế liên minh” điều đặc biệt, Mỹ có quyền chọn ai là bạn ai là thù một thời gian rồi đổi ngược lại! Trong cuộc chiến Việt Nam, Mỹ là người chiến thắng thầm lặng vì hốt quá nhiều lợi nhuận và củng cố địa vị số-1 trên thế giới. Thế nên, mục đích của việc Mỹ đổ quân vào Việt Nam là nhằm ngăn cản Trung Quốc chiếm Đông Nam Á sáp nhập vào Trung Quốc, đưa Trung Quốc thành quốc qia đứng nhất thế giới , Trung Quốc sẽ giành chức Đế Quốc số-1 của Mỹ (trong nầy quan trọng nhứt là hũy bỏ vũ khí cũ và tái sản xuất vũ khí thời đại; Sau khi Mỹ âm thầm giao Việt Nam cho Liên Xô trong thế “Bên phía Kẽ Mạnh” (Việt Nam muốn đánh với Mỹ phải cần vũ khí Liên Xô, [nhưng Mỹ Cà credit card để trả lương gián tiếp cho công nhân Liên Xô qua nguyên vật liệu từ Mỹ] nên Việt Nam sẽ dựa hẳn vào Liên Xô) Mỹ an tâm là Trung Quốc không thể chiếm Đông Nam Á sáp nhập vào Trung Quốc. Trung Quốc muốn chiếm Đông Nam Á thì phải chiếm Việt Nam trước đã, phải đánh nhau với Liên Xô, Trung Quốc đánh với Liên Xô trên chiến trường Việt Nam năm 1979 qua vũ khí hai bên làm ra. Mục đích của Mỹ đã đạt nên Mỹ rút đi năm 1973; Chức Đế Quốc của Mỹ đứng nhất thế giới vẫn củng cố giữ được cho đến ngày nay

     Người Mỹ vốn thực tế và thẳng thắn nên chính họ là nước lên tiếng trước chúng ta, (vì các biến-cố đang, sẽ xẩy ra đều do Mỷ dàng-dựng, và biết chắc rằng: Việt Nam cần bắt lấy cơ hội này mà đa phương hóa vấn đề tranh chấp biển Đông; Một số quốc gia khác cũng đang lo ngại Trung Quốc, ít nhất cũng có chung 1 quan điểm với VN là phải giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, trong khi trước đó các nước nầy phải bỏ tiền mua vũ khí Mỹ để tự vệ; cho nên lúc nào Mỹ cũng make money kể cả thời bình
Việt Nam phải dựa vào Mỹ, là nước có quyền lợi kinh tế bị đe dọa ở biển Đông, làm lá chắn cho mình; VN không nhất thiết phải đối đầu quân sự với TQ nhưng bằng ngoại giao và chính trị có thể ràng buộc TQ tuân thủ luật pháp quốc tế COC nếu không muôn trực tiếp đối đầu với Mỹ (Nên lưu ý có chiến tranh VN là bãi chiến trường, nên Mỹ không muốn VN sẽ rơi vào thảm cảnh một lần nửa) VN nên mời gọi các công ty Mỹ hợp tác khai thác biển Đông vì Mỹ đã chính thức phản đối việc TQ gây áp lực lên các công ty của họ; Cái ông Đại Tướng Thanh nói là có toan tính của đảng trong đó; Có nhiều người không thích cộng sản, nhưng cộng sản có nhiều cái đúng hoàn toàn do CIA cố vấn vì không muốn TQ nắm chặc VÒI XĂNG! Còn VN, chỉ có mình mới tự giải phóng cho mình được (đấu tranh giải phóng dân tộc) Độc lập và tự chủ (chiến tranh 1979 với TQ, Liên Xô muốn can thiệp nhưng VN theo CIA cố vấn không cần can thiệp, vì Mỹ khi đồng minh tháo chạy lở rớt lại vài warhead của CBU-55) chỉ muốn viện trợ vũ khí. Dẩu sao TQ nó củng ở gần bên, có nhiều ràng buột mà không phải ta bỏ là được, rồi giải pháp hòa bình thông qua quốc tế hóa là vẩn còn nguyên hi vọng. Phản ứng của Mỹ nó như một tín hiệu Mỹ muốn móc nối thôi; Việc đi nhờ quốc gia khác giải quyết vấn đề của ta là không thể; Trong khi Việt Nam củng không theo chiến lược diều hâu nếu chưa quá nghiêm trọng. Phản ứng ở đây không phải là ai gan dạ hơn, can đảm hơn, nhưng ứng xử khéo léo sẻ quan trọng khi ta muốn quốc tế hóa nó. Không phải mấy cái đầu nóng là bảo vệ được chủ quyền, nhưng phát triển quan hệ mới với Hoa Kỳ, đó là một lựa chọn đúng đắn cho sự cân bằng, không phải là sự trông cậy, không phải hăm dọa Trung Quốc.
Người viết tin chắc rằng đến ngày hôm nay, tướng Vịnh đả lộ rỏ nguyên hình là Tripple Cross, nên người đại diện chính quyền VN tướng Phùng Quang Thanh biết rất rõ tình hình đối đầu (với TQ) ngày càng gia tăng tại biển đông, không ai ngoài ông là một trong những người chịu nhiều áp lực nhất trước khi trả lời báo chí về vấn đề vô cùng nhạy cảm này.
     Người lãnh đạo tài ba phải là người biết lèo lái con thuyền đi vòng qua những thác ghềnh, nhất là khi tránh con thác này thì buộc phải đụng con thác khác thì ta mới chọn con thác nào dể vượt qua nhất. Nên nhớ rằng nếu có chiến tranh dù Mỹ hay TQ gây ra, VN vẫn là bãi chiến địa điêu tàn nhứt; Tuy HK đã nêu quan điểm về biển đông, nhưng ta cũng không nên tin tuyệt đối vào người đồng minh cũ này được vì đã có nhiều hành vi bất tín, không khéo để xãy ra chiến tranh tại biển đông thì chắc chắn dân ta lại rơi vào cảnh lầm than nghèo đói và chết chốc.
Chúng ta không nên ngồi đây mà ý kiến này nọ, mà hãy nên cùng nắm chặt tay nhau, cùng tạo thành một khối thống nhất, thì kẽ thù nào dù có muốn thôn tính biển đảo của ta cũng phải kiên dè. Tôi muốn nói hãy xóa bỏ hận thù mà nghĩ đến món nợ thù chung. Đụng vấn đề gì cũng thấy người Việt mình chia rẽ quá, chẳng ai chịu ai, ai cũng cho rằng chỉ có mình là đúng, là sáng suốt hơn người khác. Nhất là đang còn một bộ phận không nhỏ "tử thù", chống Cộng (tức cộng sản chớ không phải là Mafia-VN) đến cùng, nhưng lại không có “thần tượng” Thần tượng như một người tài ba mà nước Mỹ kính nể, thế giới kính nể như Bác học Nguyễn Xuân Vinh mà cũng có người không ra gì chỉ trích cho mình chính mới là thần tượng, thật nhục vì NVHN không có lãnh tụ, chỉ có điều kiện duy nhứt là 2 triệu người đều là lãnh tụ hết? Nếu chúng ta đoàn kết dân tộc, trên dưới một lòng thì sẽ chẳng có kẻ thù nào giám xâm lăng. Vì vậy, để bảo vệ Tổ Quốc, không gì tốt hơn là phải có chính sách hoà hợp hoà giải dân tộc thực sự như cố Thủ Tướng Võ Văn Kiệt từng kêu gọi, trước khi bàn đến các giải pháp khác. Nhưng ác nghiệt thay Mỹ chưa muốn vi còn quá sớm, nhứt là còn thành phần “tữ-thù” như tôi nêu ở trên, CIA sợ tạo ra cảnh tắm máu như hận thù vừa nói trên!
Ai đã tìm hiểu về lịch sử Việt Nam thì sẽ hiểu, hợp tác với tất cả các nước trến thế giới là một điều quan trọng, việc này làm cho chúng ta hoc hỏi được nhiều hơn trên mọi lĩnh vực; Bắt tay với Hoa Kỳ, hay với Trung Quốc đều có lợi cả, những cũng không tránh khỏi việc các nước này lợi dụng trong một số vấn đề. Vì vậy cần phải cân nhắc trong từng trường hợp cụ thể. Hạn chế tối đa việc đối đầu trực diện, vì điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới lợi ích của dân tộc, nhưng mọi giải pháp đàm phàn không thành, thì chúng ta hãy cùng nhau hợp sức lại để chống lại bất kỳ sự xâm lược nào của kẻ thù, dù kể thù đó lại ai; Chúng ta hãy cùng đứng lên, không nên phân biệt Tư Bản hay Công Sản đã là người Việt Nam thì kẻ thù nào xâm lược đất nước thì đó là kẻ thù chung của toàn dân Việt Nam như vậy mới đúng nghĩa yêu nước, dân tộc. Nhân dân Việt Nam đến lúc đó sẽ tự lựa chọn ra người lãnh đạo và lá cờ riêng cho nước mình, quý vị cùng đừng nên nhìn vấn đề một chiều để đánh giá, hãy tự hỏi bản thân đã làm gì để nâng cáo hình ảnh Dân tộc, phát triển đất nước; Chừng nào hết trí tuệ rồi thì chúng ta mới dùng sức lực! Mà sức lực thì phải dựa vào dân, người viết tự cho mình là đại diện những người dân Việt Nam ủng hộ Việt Nam chống đối mạnh mẽ về việc xác định ranh giới tại Biển Đông! Dù một tất cũng không cho, mất một tất nước thềm lục-địa là một tất máu của đồng bào và chiến sĩ Việt Nam đã bỏ ra mà độ sâu là vô tận, Việt Nam đã chờ đợi sự lên tiếng của Mỹ. Bây giờ Mỹ đã lên tiếng ủng hộ VN, đây là cơ hội chung hợp tác với Mỹ để bảo vệ lãnh hải đảo; Tuy nhiên, cần khéo léo để tránh phật ý TQ; Có như vậy mới đạt được mục tiêu giữ vững chủ quyền của tổ quốc chúng ta. Việt Nam cần đoàn kết 85 triệu người như một như các thời kỳ kháng chiến trước đây để đương đầu với lũ bành trướng phương bắc là kẻ thù truyền kiếp của đất nước ta
    “Trong cuộc chiến đấu vừa qua Mỹ đưa ra một thông điệp, dù rằng mục đích chiến lược là huấn luyện tác chiến giữa 2 quân đội cho TQ thấy Mỹ tuy mạnh như thế mà vẩn thua VN? Thì TQ nên suy nghĩ 2 lần hay nhiều hơn!” Ðây mới thật là mục tiêu cuộc chiến VN để kết cuộc: VN thống nhứt trong lăng-kính của Permanent Government ở hiệp định Genève 1954, chỉ có độc nhứt phái đoàn Mỹ là cương quyết không chịu ký “chia đôi VN” Ðến 30/4/1975 mới thật sự giành được độc lập vì, “Freedom is not for free”

Hoa kỳ xác quyết không ký chia đôi VN

Trong Hiệp định Geneve 1954, Hoa Kỳ hàm ý sẽ thống nhứt Việt Nam vào ngày 30/4/1975 nên trước khi đem quân Mỹ qua tham chiến với 3 đáp số định kiến (axiom) rỏ rệt dưới đây:
-1) There was never a legitimate non-communist government in Saigon [dissolution GVN]
-2) The US had no legitimate reason to be involved in Vietnamese affairs [Tonkin Accident]
-3) The US could not have won the war under any circumstances [US troops honorable withdraw 1973]
Hoa Kỳ quyết định bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa, để cho Hà Nội chiếm cả nước, nhưng thật ra Hoa Kỳ đả tạo nên “sự thống nhứt Việt Nam” như lời chống quyết-liệt chia đôi VN của hầu hết các thành viên ký vào Hiệp định Genève 1954 chia đôi VN; Nhưng đây là những việc Mỹ nhúng sâu không tốt gì cho hành động đẩm máu trong cuộc chiến nầy, cứ để cho lịch sử VN ngầm cám ơn Hoa Kỳ trong sự thống nhứt, vì “Sự tự do nào cũng phải trả giá”

      Đầu mùa hè năm 2011, thế chiến lược 10 năm sau cùng (2010-2020) “trù dập TQ”hiện lộ ra dưới cuối đường hầm tăm tối của sách lược Eurasian đả gây cho thế giới lên cơn sốt về việc Trung Cộng tạo căng thẳng ở Biển Đông thì ai nấy đều ngóng trông nơi Hoa Kỳ với niềm hy vọng Hoa Kỳ sẽ là cứu tinh giúp họ đối phó với mộng bành trướng của Trung Cộng (trong lăng kính dàn-dựng các biến cố nầy sẽ xảy ra trong khi Harriman đã nằm sâu dưới chín tầng hoả ngục. W A Harriman (1981-1986) người đại đế giấu mặt thế hệ thứ-1 thuộc triều đại Skull and Bones; nhưng chuyện phải đến, ngày 14/6/2011, Văn Khố Quốc Gia (National Archives) của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ cho giải tỏa (declassify) 7000 trang hồ sơ về những vấn đề của Việt Nam và Đài Loan hơn 40 năm trước làm cho niềm tin của đồng minh nơi Hoa Kỳ tan thành mây khói. Sau đó, National Security Archive ở George Washington University đưa ra thêm 28,000 trang hồ sơ, trong đó có những mẫu đối thoại đi vào chi tiết giữa hai Ngoại Trưởng Henry Kissinger và Chu Ân Lai càng làm cho nhiều người nhìn ra sự thật phũ phàng Hoa Kỳ đã bán đứng Việt Nam Cộng Hòa và Đài Loan để đổi lấy sự làm hòa và giao thương với Trung Cộng, mục tiêu của đại đế giấu mặt thế hệ thứ-2 George H W Bush là tìm ngay nguồn nhân công khổng lồ và rẻ mạt, đồng thời đưa TQ lên hạng-2 cường quốc, tạm thời thế ngôi vi Liên Xô theo đúng trục lộ-đồ 1970-2010; và bắt đầu chuyển tiếp qua cho Ấn Ðộ 2020, một nước mà Hoa Kỳ tin chắc rằng sẽ không có tham vọng trồi lên giành ngôi hạng-1 của Mỹ như TQ

     Tài liệu này tung ra làm cho hồi ký của Kissinger xuất bản năm 1979 (The Memoirs) không còn giá trị vì nhiều điều trong hồi ký của Henry Kissinger viết đều sai với những chi tiết trong tài liệu này. Hồi ký của Henry Kissinger viết là để đánh bóng cá nhân và để chạy tội cho bàn thân vì Kissinger là kẻ có tài được Thống đốc TB New York là Harriman thuê mướn và tài trợ để làm công cụ cho War Industries Board sau nầy, nhưng thực chất của nó là đánh hoả mù và bóp méo sự thật tội lổi của triều đại Skull and Bones; Tài liệu lịch sử của Văn Khố cho thấy chính sách của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ là đặt quyền lợi nước Mỹ là tối thượng (America First) cho dầu chính sách này đưa đến sự phản bội những đồng minh cũng như phải dấu diếm và lừa cả chính dân chúng và Quốc Hội Hoa Kỳ như vụ Iraq có vũ khí nguyên tử, do một thế lực ghê-gớm trong ban Hội đồng kỹ nghệ quốc phòng (WIB)
Đầu thập niên 1970s chiếu theo tu chánh án “Cooper-Church” Hoa Kỳ thay đổi sách lược bắt tay với Trung Cộng đối phó với Liên Xô buộc Hoa Kỳ phải hất Đài Loan ra khỏi Liên Hiệp Quốc và đưa Trung Cộng vào thay thế vị trí này. Cách đây 40 năm, Hoa Kỳ đã công nhận chỉ có một nước Trung Quốc, và Đài Loan cũng chỉ là một tỉnh của Trung Quốc với một thể chế đặc biệt?! Hoa Kỳ đã theo đuổi chính sách này 40 năm và sẽ tiếp tục theo đuổi chính sách này cho đến khi Đài Loan danh chính ngôn thuận thống nhất với Trung Quốc, nhưng với điều kiện phải thay đổi quốc kỳ như Việt Nam, và Triều Tiên sau khi thống nhứt!
Phải thống nhứt trong một trật tự an toàn thế giới (The New World) thông thường thì khi sự thống nhất xảy ra, Trung Quốc lúc đó có thể chế đa đảng, như vừa rồi con cò mồi Luât sư Cù Huy Hà Vủ: “không chống đảng, nhưng phải có đa đảng vì ích lợi cho nền “dân chủ pháp trị” Tài liệu cũng cho thấy Trung Cộng đặt điều kiện giải quyết vấn đề Đài Loan đi đôi với giải quyết chiến tranh Việt Nam. Hoa Kỳ quyết định bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa, để cho Cộng Sản Việt Nam chiếm cả nước, nhưng thật ra Hoa Kỳ đả tạo nên sự thống nhứt Việt Nam như lời chống mảnh liệt chia đôi VN của hầu hết các thành viên ký vào Hiệp định Genève chia đôi VN giữa đại tướng Pháp Deltheil và Thủ tướng Việt Minh Tạ Quang Bửu đồng ký; Nhưng đây là những việc làm không tốt gì cho hành động đẩm máu của Mỹ trong cuộc chiến, cứ để cho lịch sử VN ngầm cám ơn Hoa Kỳ trong sự thống nhứt nầy, vì “Freedom is not for free”

     Và Hoa Kỳ phủi tay trong một thời gian vài thập niên bỏ ngõ Đông Nam Á và Biển Đông cho Trung Quốc tạo ảnh hưởng. Tài liệu cho thấy khi ấy Bắc Việt rất bối rối và chuẩn bị đầu hàng vì không chịu nổi B52 bỏ bom ở Hà Nội, và nhóm phản tình báo Mỹ như Jane Fonda, trung úy phản chiến John F Kerry thuyết phục Hà Nội nên qua Paris nhận sự đầu hàng của Mỹ về trận Ðiện Biên Phủ trên không, vì đả bắn hết trên 1.300 hoả tiển SAM và không còn gì trong tay. Nhưng vì đã thỏa thuận với Bắc Kinh nên Henry Kissinger và Tổng Thống Richard Nixon ngưng bỏ bom như một hình thức vất đi chiến thắng đang ở trong tầm tay! Nhưng thật ra trên 14 triệu tấn Bom đạn cũng vừa đủ để tái thiết hậu chiến theo định luật Malthus
Cũng vì chính sách gài bẩy nầy và để hợp thức hoá phương thức COC trên thềm lục địa đang bị tranh chấp và buộc TQ phải thi hành đứng đắn những điều khoản mà một thành viên LHQ phải nghiêm chỉnh tuân thủ, nên tháng Giêng năm 1974, Trung Cộng đưa hải quân đánh Hoàng Sa, Hải Quân VNCH chiến đấu và kêu gọi Đệ Thất Hạm Đội của Hải Quân Hoa Kỳ đang ở gần đó tiếp cứu (chỉ vì nhân đạo thôi) thì Đệ Thất Hạm Đội nhận đủ tín hiệu xin cấp cứu nhưng vẫn làm ngơ để mặc cho các thương binh VNCH chết đau thương và oan ức tại Biển Đông? Tại sao Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ tiết lộ những bí mật này với mục đích gì? Có phải họ có lòng thành tiết lộ những bí mật đầy lừa lọc và phản trắc đối với các đồng minh của họ? Bí mật lịch sử đã vén màn, liệu những đồng minh của Hoa Kỳ có còn tin tưởng nơi Hoa Kỳ như họ đã có trước đây? Thật ra Hoa Kỳ ở trong tình thế không thể giữ bí mật lâu dài được nữa vì Theo hiền-triết W. Brayant đã nói: “Sự thật dù có vùi xuống dưới đất rồi cũng sẽ trồi dậy!” Những bí mật lịch-sử mà họ cố tình che giấu hay bóp méo, rồi sẽ xuất hiện nguyên hình khi thế hệ liên quan đến cuộc chiến 50 năm trước đây không còn nữa; Vì chẳng có gì che dấu mà không được tỏ lộ, cũng chẳng có gì bí-ẩn mà không được đưa ra ánh-sáng; ai làm đều ác thì ghét ánh-sáng, để các việc họ làm khỏi bị nguyền rủa. Chúng ta, những kẻ sống với sự thật, thì hãy đến cùng ánh-sáng, để thiên-hạ thấy rõ các việc làm của họ đã bị đưa ra dưới ánh-sáng. Nhưng tôi cũng nhận ra một điều: không một ai có thể giải thích cuộc chiến ấy! Ðối với cá nhân tôi, đó là một bí ẩn và chắc hẳn, đó cũng là bí ẩn trung tâm của thế hệ chúng ta: Và tôi quyết định đi tìm câu trả lời! Vì tôi thuộc vào thế hệ chiến tranh, và tôi không thể lấy cuộc chiến ấy ra khỏi đầu tôi, rỏ ràng là như vậy “Đây là một chiến thắng thầm lặng hay một sự thất bại nhục-nhả?” Đồng thời tôi tin tưởng mảnh liệt vào thế hệ thứ Ba, sẽ xuất hiện nhiều sử gia đồng nhứt cho lịch sữ; “Không có Sử gia, sự thật sẽ vỉnh viển nằm trong bóng tối”
     Trước đây những chi tiết này đã rò rỉ ra ngoài hầu hết rồi và nếu cứ tiếp tục dấu diếm những điều mà mọi người đã đoán biết thì hệ quả của nó còn tai hại hơn cả việc tiết lộ. Cách đây 40 năm, ông Daniel Ellsberg đã tiết lộ những bí mật này cho The Washington Post, the Times, New York Times, và nhiều cơ quan truyền thông khác tạo một cú sốc trong quần chúng Hoa Kỳ. Ngày hôm nay, Văn Khố Quốc Gia tung ra những tài liệu cách đây 40 năm chỉ là để xác nhận cách chính thức những tài liệu ông Daniel Ellsberg tung ra trước đó là chính xác thôi, mọi người đừng đoán già đoán non nữa. Ông Daniel Ellsberg là người gốc Do Thái, sinh trưởng tại Chicago (sinh ngày 7/4/1931), là một người phân tích tình báo chiến thuật chiến lược của quân đội; Ông từng là nhân viên của RAND Corporation; Rand là chữ viết tắt của Research and Development, một công ty bất vụ lợi chuyên phân tích tình hình cho Quân Đội Hoa Kỳ và Doughlas Air Company là một công ty chế tạo các vũ khí cho Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Rand Hanch cho 36 công ty sản xuất chất độc màu da cam, Rand có 1600 nhân viên và trong 1600 nhân viên này có những người làm cho tình báo Hoa Kỳ.
Năm 1954, sau khi tốt nghiệp ở Harvard, Daniel Ellsberg gia nhập Hải Quân Hoa Kỳ. Ông ra trường đứng đầu lớp cả 1000 người. Mang lon Thiếu Uý, ông trở thành tiểu đội trưởng, sau 2 năm phục vụ cho Hải Quân, ông được trở về công việc dân sự, ông tiếp tục học ở Harvard và tham gia giúp Rand chuyên phân tích tình hình quân sự; Năm 1964, ông chính thức làm cho Bộ Quốc Phòng và ông tham gia biến cố hạm đội USS Maddox xảy ra ở Vùng Vịnh Bắc Việt (Gulf of Tonkin) năm 1964. Khi ấy Hoa Kỳ nói rằng Bắc Việt tấn công hạm đội USS Maddox để lấy cớ đó tấn đánh Bắc Việt nhưng bây giờ tài liệu đã giải mã, chính Hoa Kỳ dàn dựng vụ này hơn là Bắc Việt. Năm 1965, ông được chuyển sang làm Bộ Ngoại Giao đặc trách phân tích tình hình Việt Nam. Năm 1967, ông trở về làm cho Rand và cho Bộ Quốc Phòng, trực tiếp chịu trách nhiệm với Bộ Trưởng Quốc Phòng
Năm 1969, ông không có thiện cảm sách lược của Hoa Kỳ với Cuộc Chiến Việt Nam và sau khi nghe Randy Kehler (sinh năm 1944) một trong những người phản chiến thuyết trình cách hùng hồn, ông Daniel Ellsberg trở thành một trong những người chống chiến tranh. Sau khi đã có thiện cảm với nhóm phản chiến và ở cương vị là một người có thể tiếp xúc được những tài liệu tối mật của quốc gia, cùng với Anthony Russo (1934-2008) làm ở Rand, Daniel Ellsberg bí mật sao lại (copy) nhiều tài liệu tối mật và rò rỉ ra ngoài cho báo chí biết; Tài liệu rò rỉ bí mật này được giới truyền thông Hoa Kỳ đặt tên cho là Pentagon Papers; Năm 1970, Daniel Ellsberg cố gắng ảnh hưởng trên các Thượng Nghị Sĩ bằng cách thuyết phục các đổng lý văn phòng (chiefs-of-staff) của các Thượng Nghị Sĩ những tàn hại về Chiến Tranh Việt Nam. Chủ Nhật ngày 13/6/1971, lần đầu tiên báo Times đăng trích đoạn từng phần 7000 trang Pentagon Papers.

Tổng Thống Richard Nixon và Henry Kissinger bị cú đấm bất ngờ, lập tức phản ứng cách hung hãn, cách chức nhiều người họ nghi hoặc. Tổng Thống Nixon nói: “Hãy cách chức ngay những tên đầu não.” Nội các của Tổng Thống Nixon nộp đơn khẩn cấp xin Tối Cao Pháp Viện ngăn cấm không cho Times và các báo chí tiếp tục đăng tải những tin tối mật của Quốc Phòng. Times và các cơ quan truyền thông báo chí nhất quyết không chịu tiết lộ Daniel Ellsberg là nguồn gốc nhận tin của họ, Daniel Ellsberg phải trốn chui trốn nhủi trong bí mật cả 2 tuần; Sau 2 tuần, Tối Cao Pháp Viện phán quyết Times có quyền tiếp tục đăng tải những thông tin tối mật của Bộ Quốc Phòng được rò rỉ tới họ vì đây là Tự Do Ngôn Luận được bảo vệ bởi Tu Chính Án Thứ Nhất. Phán quyết này như một cú tát tai vào mặt nội các của Tổng Thống Richard Nixon.
Ngày 28/6/1971, Daniel Ellsberg và bạn đồng nghiệp Anthony Russo nộp mình cho FBI ở Boston Massachussett; Chính phủ Liên Bang Hoa Kỳ truy tố 2 người vi phạm Đạo Luật Tình Báo Năm 1917 (Espionage Act 1917). Sau 2 năm điều tra và nhiều biến chuyển, vào tháng 5 năm 1973, chánh án William M. Byrne, Jr. ra lệnh bãi nại vụ án này. Sau vụ án này, Daniel Ellsberg đi thuyết trình nhiều nơi về các đề tài chính trị cũng như những bí mật lịch sử liên quan đến Việt Nam và Đài Loan. Daniel Ellsberg và Anthony Russo đã tiết lộ những bí mật cách đây hơn 40 năm và hiện nay Daniel Ellsberg còn sống và còn đi thuyết trình những vấn đề đó nên Văn Khố Quốc Gia chấp nhận bạch hóa hồ sơ. Khi bạch hóa hồ sơ thì một hình thức nào đó họ cũng xác nhận chính sách của Hoa Kỳ là “quyền lợi của Hoa Kỳ là tối thượng” nên sẵn sàng bất chấp cả sự phản bội đối với đồng minh để đạt mục tiêu. Vì lợi ích lịch sử, Permanent Government phải che dấu thế chiến lược toàn cầu Eurasian trong lăng kính, riêng về vụ Watergate: "Nixon biết rằng khi điều trần trước một Bồi thẩm đoàn, ông sẽ đối diện với việc khai man hay không, vì vậy người viết đoán rằng ông ấy đã nói sự thật” đây là hình thức PG hù doạ, khủng bố một vị tổng thống có danh dự tự buộc mình phải từ chức trong khi Thái-tử George W Bush thì sẽ buộc phải “chai mặt” để làm việc lớn cho ngôi vị cần có chiếc ghế quyền lực để áp đặt cho bằng được “PATRIOT-ACT” trong nhiệm kỳ của Thái tử và Bush Con đã đạt được (The USA PATRIOT Act (commonly known as the "Patriot Act") is an Act of the U.S. Congress that was signed into law by President George W. Bush on October 26, 2001. The title of the Act is a contrived three letter initialism (USA) preceding a seven letter acronym (PATRIOT), which in combination stand for Uniting and Strengthening America by Providing Appropriate Tools Required to Intercept and Obstruct) với 2 mục tiêu:
- (1)
Bảo vệ danh dự cho Bush Ông Nội, chủ tịch WIB: vì tình yêu tổ quốc (Patriot Act) có nghĩa là làm cách nào đưa nước Mỹ lên đến “đỉnh cao chót vót” dù phải hy sinh triệt tiêu các lảnh tụ ngoài hay trong nước để đạt mục đích
- (2)
Bênh vực sách lược của Bush-Cha thực thi axiom-1, bức tử miền nam nên phải tuyên bố: “Người dân miền nam không chịu đấu tranh cho sự tự do. Nên….!”

Sử gia Kutler muốn đóng kín hồ sơ do đơn đặt hàng: (họ cần nhửng sử gia, học giả, ký giả … để bóp méo mọi sự thật hồng làm chệch đi sự thật của sự việc đen tối vì quyền lợi hẹp hòi của họ)
Trong tương lai, những ai muốn làm đồng minh với Hoa Kỳ thì phải biết điều này mà trong luật họ gọi đó là caveat emptor – let the buyer beware, làm bạn với Mỹ và nếu Mỹ đâm sau lưng cách bất ngờ thì đừng có than trời trách đất như TT Nguyễn Văn Thiệu đả nói: “Làm kẻ thù với Mỹ thì dể, nhưng làm bạn với Mỹ thí khó”
Lời Kết: Hoa Kỳ là siêu cường số 1 trên thế giới hiện nay nên không giao dịch hoặc làm bạn với Hoa Kỳ thì thiệt hại rất nặng nề. Làm bạn với Hoa Kỳ thì phải biết được ưu và khuyết điểm của Hoa Kỳ, đừng đặt quá nhiều kỳ vọng nơi Hoa Kỳ để rồi không biết tự xây dựng thực lực cho chính bản thân mình thì có ngày vì quyền lợi của Hoa Kỳ, họ bán đứng không kịp trở tay thì đau lòng vô cùng.
Trở lại vấn đề Biển Đông, chắc Hoa Kỳ và Trung Cộng đã có một thỏa thuận ngầm gì ở đàng trong rồi nên Bộ Trưởng Quốc Phòng của Trung Cộng là Trì Hạo Điền mới dám mạnh miệng tuyên bố với Hoa Kỳ là “hãy chia đôi Thái Bình Dương” và trong tháng 6/2011 Bắc Kinh đổ hơn 1000 tỷ Mỹ Kim mua công khố phiếu của Hoa Kỳ, TQ bị dụ hay buộc phải làm như vậy vì không còn con đường nào khác? Tôi đưa ra ý kiến như vậy không biết trúng hay trật vì có nhiều trường phái yếu bóng vía cho rằng: Việt Nam xắp có Pass Port bằng tiếng Tàu … Nói tóm lại, chỉ có chế độ đa đảng và sự đoàn kết của người Việt trong và ngoài nước thì mới có đủ sức mạnh để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Thiếu một trong 2 yếu tố này, nguy cơ mất nước của Việt Nam rất là gần kề, nhưng người Việt đừng sợ Hoa Kỳ sẽ keo sơn với Việt Nam cũng vì America First
 KQ Truong Van Vinh

Monday, August 1, 2011

Ðừng tin Mỹ giải mật hồ-sơ chiến tranh VN

 Mỹ có thể công bố lời chứng Watergate: (Cho những ai muốn tìm hiểu bí mật về cuộc chiến Việt Nam)
Ðả đến thời điểm phải bạch hoá hồ sơ được tạm gọi là mật, nhưng Nhóm WIB (War Industries Board) lại âm mưu bóp méo nhiều sự thật đen tối … để rồi sẻ bỏ sau lưng dòng lịch sử chìm trong bóng tối quyên lảng.
Ông Richard Nixon là Tổng thống duy nhất trong lịch sử Mỹ đã phải từ chức; Tại sao Nixon không chịu tự ân xá mình theo hiến định như tổng thống thứ 43 George Bush đã làm? Nghe lén có quan trọng bằng lừa dối dân Mỹ và Quốc Hội về việc gây chiến (Power Act) ở Iraq lấy cớ dựng lên Iraq có vũ khí giết người hàng loạt? trong khi đại đa số thành viên LHQ không tán đồng, kể luôn 2 nước láng giềng Mexico và Canada cũng quyết liệt chống đối, chưa kể Ông TTKý/LHQ tuyên bố Mỷ đánh Iraq là vi phạm điều lệ LHQ, nhưng Mỹ cứ đánh thi sao? Tại sao ở Mỹ một nhóm siêu Mafia được gọi tên là WIB (War Industries Board) có quyền thao túng chính sách và dùng truyền thông văn hoá để khủng bố mọi chính phủ trên thế giới bằng quỷ tài trợ nơi ngân hàng Thụy Sĩ?
   

    Ngày nay họ vẩn tiếp tục gọi là hồ sơ đả được giải mật để che dấu và khóa sỗ hồ sơ về lịch sữ mua bán đổi chác thứ mặt hàng giết người quá tàn ác của họ đễ bỏ lại sau lưng bóng tối chìm trong dỉ vảng; Lời chứng Watergate được giữ bí mật trước Bồi thẩm đoàn của cựu Tổng thống Mỹ Richard Nixon trong vụ bê bối Watergate sắp được công bố sau hơn 36 năm, theo lệnh của một Chánh án Liên bang. Chánh án Royce Lamberth “cò-mồi” khi đưa ra lệnh này, theo yêu cầu của nhà sử học Stanley Kutler, đã trích dẫn ý nghĩa lịch sử của tài liệu, để làm gì … có phải một thế lực ghê gớm muốn nhận chìm hồ sơ cho cái danh nghĩa đóng hồ sơ đả đúc kết đầy đủ?
    Các bài liên quan gọi là hồ sơ mật nhưng hoàn toàn hỏa mù bóp méo theo chủ trương sách lược của WIB đưa ra:
    - Bí mật quanh hồ sơ "Nixon-Thiệu"
    - Nixon ép Sài Gòn ký hòa đàm 1973
    - Nhắc lại chuyện xưa Watergate
Nhưng tài liệu này sẽ không được tháo niêm phong cho đến khi Chính phủ có cơ hội để kháng cáo, hay những chứng nhân đều chết hết. Vụ bê bối chính trị tai tiếng đã khiến ông Nixon phải từ chức vào năm 1974 đều do sự giàn dựng tỉ mỉ bởi thiết kế viên Richard Helms, Donald Rumsfeld and George H W Bush, nhưng Thái tử George W Bush thì lại được quyền áp-dụng hiến định để tự ân xá cho chính mình và ngồi trên chiếc ghế quyền lực đến mản nhiệm kỳ-2 thì ai dám làm gì nhau!
Nixon, người đã qua đời 17 năm về trước, là cựu Tổng thống Mỹ duy nhất phải từ chức để hoá giải các bức thơ riêng tư giữa 2 tổng thống cho sự hoàn thành định kiến-1 (axiom-1, nếu đọc 2 tác phẩm “The New Legion” sẽ hiểu ngay)
Ông rời nhiệm sở trong bối cảnh tranh cãi gay gắt sau vụ nghe lén điện thoại tại trụ sở Ủy ban Quốc gia của Đảng Dân chủ tọa lạc ở tòa nhà Watergate tại Washington. WIB nghĩ rằng vì danh dự buộc TT Nixon phải từ chức thay vì phải đôi chối trước toà: TT Nixon đã làm chứng trong hai ngày tại California hồi Tháng Sáu năm 1975, 10 tháng sau khi ông từ chức và miền nam đã rơi vào tai CS theo định kiến-1 (axiom-1)
Vì lợi ích lịch sử, Permanent Government phải che dấu thế chiến lược toàn cầu Eurasian trong lăng kính: "Nixon biết rằng khi điều trần trước một Bồi thẩm đoàn, ông sẽ đối diện với việc khai man hay không, vì vậy người viết đoán rằng ông ấy đã phải nói sự thật” đây là hình thức PG hù doạ một vị tổng thống có danh dự tự buộc mình phải từ chức trong khi Thái-tử George W Bush thì sẽ buộc phải chai mặt để làm việc lớn cho ngôi vị cần có chiếc ghế quyền lực để áp đặt cho bằng được “PATRIOT-ACT” trong nhiệm kỳ của Thái tử và Bush Con đã đạt được (The USA PATRIOT Act commonly known as the "Patriot Act") is an Act of the U.S. Congress that was signed into law by President George W. Bush on October 26, 2001. The title of the Act is a contrived three letter initialism (USA) preceding a seven letter acronym (PATRIOT), which in combination stand for Uniting and Strengthening America by Providing Appropriate Tools Required to Intercept and Obstruct)
- (1) Bảo vệ danh dự cho Bush Ông Nội, chủ tịch WIB: Tình yêu tổ quốc (Patriot Act) có nghĩa là làm cách nào đưa nước Mỹ lên đến “đỉnh cao chót vót” dù phải hy sinh các lảnh tụ ngoài hay trong nước để đạt mục đích
- (2) Bênh vực sách lược của Bush-Cha thực thi axiom-1 nên phải tuyên bố: “Người dân miền nam không chịu đấu tranh cho sự tự do. Nên….!”
Sử gia Kutler muốn đóng kín hồ sơ do đơn đặt hàng: (họ cần nhửng sử gia, học giả, ký giả có chút tiếng tâm .. để bóp méo mọi sự thật hồng làm chệch đi sự thật của sự việc đen tối vì quyền lợi hẹp hòi của họ)
Quan tòa Lamberth nay phán quyết rằng vì lợi ích lịch sử về biên bản lời chứng, vốn dày tới 297 trang này, nặng cân hơn là sự cần thiết giữ bí mật hồ sơ. "Ý nghĩa về lịch sử nước Mỹ qua vụ Watergate không thể bị át đi," Thẩm phán Lamberth cho hay. "Việc công bố lời khai trước Bồi Thẩm đoàn của Tổng thống Nixon có thể sẽ củng cố các tư liệu lịch sử hiện có, thúc đẩy một cuộc thảo luận học thuật và nâng cao sự hiểu biết của công chúng về một sự kiện lịch sử quan trọng," ông nói.
Ông Kutler(người đả được WIB đặt hàng) một giáo sư của trường Đại học Wisconsin, người đã viết nhiều sách về Nixon và vụ Watergate, trước đó đã khiếu kiện thành công để gây sức ép buộc phải công bố các băng âm thanh của ông Nixon, vốn được thực hiện bí mật tại Phòng Bầu dục? Ai hiểu được sự kiện bí mật đả được nhào nắn nầy với mưu đồ gây hoả mù?
"Nixon biết rằng khi điều trần trước một Bồi thẩm đoàn, mà Nixon sẽ đối diện với việc khai man hay không, vì vậy tôi quyết đoán rằng ông ấy đã nói sự thật", ông Kutler cho biết đó là điều sỉ nhục mà Nixon tôn trọng danh dự nên sẽ từ chức, thế còn Bill Clinton vụ lăng nhăn tình ái thì sao? Quái quắc hơn nữa là Thái tử Bush đả lừa gạc người dân Mỹ và Quốc Hội thì sao về sự kiện Iraq có vũ khí giết người hàng loạt?
"Ông ấy đã nói gì về sự thật? Bây giờ tôi vẫn không biết." Ông Kutter muốn ám chỉ gì?
Các bài liên quan
• Bí mật quanh hồ sơ "Nixon-Thiệu" 01/06/10
(đừng tin vì họ muốn giàn dựng lên có lợi cho PG trong lịch trình ước tính)• Nixon ép Sàigòn ký hòa đàm 1973 24/06/09 (theo mật lịnh của PG cho thế chiến lược toàn cầu)• Nhắc lại chuyện xưa Watergate 26/05/09 (Họ buộc phải nói rỏ với lịch sử nhưng hoàn toàn bị bóp méo theo sự thiết kế khá tỉ mỉ và chủ đạo của WIB)• Ra mắt tiểu sử chính thức về Kissinger và 1973 22/08/09 (Tiểu sử Kissinger không ưa Nixon theo như hồ sơ dơ bẩn “dirty file” của Nixon; nhưng dù ai làm TT cũng phải nhận Kissinger làm BTNG, đó là bằng chứng bắt buộc TT Nixon phải nhận Kissinger cũng là điều nghịch lý mà chúng ta cần phải hiểu và đặt nhiều nghi vấn? Tại sao người chữi mình suốt mùa bầu cử tổng thống mà bị bắt buộc phải chọn hắn vào trong guồng máy chính phủ? Ai ép buộc?

    Bí mật quanh hồ sơ "Nixon-Thiệu"
GS Nguyễn Tiến Hưng ra mắt cuốn " Tâm Tư Tổng Thống Thiệu" tại California
Tác giả cuốn sách mới về "Tâm Tư Tổng Thống Thiệu" nói với BBC rằng một trong những hồ sơ quan trọng liên quan cuộc chiến Việt Nam vẫn chưa được giải mật. Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Bộ Trưởng Kế Hoạch của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, nhắc đến cái gọi là hồ sơ "Nixon-Thiệu" chứa các tài liệu và thư từ giữa Tòa Bạch Ốc và Dinh Độc Lập từ năm 1971.
Ông Hưng, người được chỉ định đi cầu viện vào giờ chót, nói rằng vào ngày 23 tháng Ba năm 1975, nói ông Thiệu có cho ông xem hồ sơ này trong đó có hai bức thư của TT Nixon mà ông đã yêu cầu TT Thiệu gởi cho người kế nhiệm của TT Nixon là TT Ford qua trung gian của Tướng Frederick Weyand, cựu Tư Lệnh Quân Đội Mỹ, lúc đó là Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ.
Trong cuốn sách "Tâm Tư Tổng Thống Thiệu" mới được xuất bản, GS Hưng nói "Điểm trớ trêu là thư của TT Nixon mà TT Ford không biết gì." Họ giàn dựng lên một tổng thống không có dân bầu để cô lập và không cho Ford biết gì về cơ mật quốc gia
     Vào ngày 5 tháng Tư năm 1975, đích thân Tướng Weyand đã đưa cho TT Ford xem hai bức thư đó chỉ 5 phút trước khi TS Kissinger đến cùng họp. Ngày 30 tháng Tư, TS Hưng tiết lộ hai thư này trong một cuộc họp báo tại Khách sạn Mayflower ở Washington để đặt trách nhiệm bội ước và yêu cầu Hoa Kỳ đền bù lại bằng cách cứu vớt và cho định cư một triệu người Việt Nam.
Sau đó Quốc Hội Mỹ, theo GS Hưng, đã phản ứng "tại sao Hành Pháp Mỹ không cho Lập Pháp biết hồ sơ Nixon-Thiệu," đặc biệt là các nghị sĩ chủ trương cắt viện trợ cho VNCH như Henry Jackson, Frank Church, Ted Kennedy, Mike Mansfield...
Ngay chủ tịch của Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện Hoa Kỳ lúc đó là ông John Sparkman đã viết thư yêu cầu TT Ford [Vị tỗng thống không do dân bầu, nhưng nằm trong mưu đồ của WIB: tạo ra vụ ông Phó TT thứ 39, gian-dối trốn thuế là Spiro Agnew để Ford thế trước rồi làm tổng thống khi dựng lên vụ Watergate sau] cho kiểm xem hồ sơ "Nixon - Thiệu" nhưng TT Ford viện dẫn quyền đặc biệt của người đứng đầu hành pháp, đã từ chối. Rồi từ đó chính phủ Mỹ "đã ém nhẹm" toàn bộ hồ sơ này qua một thế lực ghê-gớm tam đầu chế: Donald Rumsfeld, Richard Cheney và George H W Bush

   Năm 1978, ông Ronald Nesson, tùy viên báo chí của TT Ford, có viết một cuốn hồi ký trong đó ông tiết lộ rằng ông được lệnh cấp trên đi tìm hồ sơ "Nixon-Thiệu" trong Tòa Bạch Ốc, và tìm được vỏn vẹn chỉ có "bảy cái thư ".
GS Nguyễn Tiến Hưng nói có tổng cộng 27 văn thư trong hồ sơ này, nhiều hơn số thư mà ông Ronald Nesson đã tiết lộ trong cuốn hồi ký.
Cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã im lặng trong suốt thời gian sống ngoài nước, trừ một lần trả lời báo ̣Đức.
Theo GS Nguyễn Tiến Hưng, hầu như tất cả các hồ sơ về cuộc chiến Việt Nam nay đã được giải mật, trừ hồ sơ "Nixon-Thiệu" mà cho tới hôm nay vẫn còn nằm trong vòng bí mật.

     Tại sao ông Thiệu không lên tiếng?Tác giả Nguyễn Tiến Hưng không tin rằng người Mỹ đã bảo cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không được nói gì về liên hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa từ khi gia đình ông dọn sang Mỹ năm 1985 tới khi ông từ trần năm 2001.
Là một người tâm sự thân tín của ông Thiệu trên bước đường sống lưu vong, GS Hưng nói rằng " tôi không tin là khi dọn sang Mỹ, ông Thiệu đã bị áp lực nào bắt phải yên lặng vì đó là thời của tổng Thống Reagan và ông Reagan rất ưu ái Tổng Thống Thiệu. Có lẽ vì phần nào của sự ưu ái đó mà ông Thiệu dọn nhà sang Hoa Kỳ sống." Ðây là sự phỏng đoán không phải như vậy đâu
Ông Thiệu đã tâm sự với ông Hưng rằng "khi vừa đến Đài Loan vào ngày 25 tháng Tư năm 1975, phái đoàn tùy tùng đã bị nhân viên Mỹ khám xét hết hành lý và tịch thu hết giấy tờ vì họ chỉ sợ hồ sơ Thiệu-Nixon lọt ra ngoài".
Ông Hưng thuật tiếp lời ông Thiệu: "Còn chuyện cái cặp bị đánh cắp nữa, vì họ tưởng rằng hồ sơ để trong đó, chứ không phải là để lục xét tiền."
Tuy nhiên, ông Hưng nói:
"Phía ông Kissinger và đảng Cộng Hòa muốn giấu hồ sơ đó đi, cho nên có thể họ đã yêu cầu TT Thiệu giữ im lặng." Còn như tướng Kỳ thì phải bô bô nói ra: Câu nói nổi tiếng: “Đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê”;
Còn Việt Cộng gọi chúng tôi là những con rối, những con bù nhìn của người Mỹ. Nhưng rồi chính nhân dân Mỹ cũng gọi chúng tôi là những con bù nhìn của người Mỹ, chứ không phải là lãnh tụ chân chính của nhân dân Việt Nam. Ðó là những gì mà WIB cần Kỳ nói toạt ra; thật ra
Hành động của ông không phải là nông nổi và thiếu suy nghĩ mà vì ông cho là đã có một viễn kiến chính xác cần phải đóng góp cho tương lai của đất nước mai sau. Vì con người chỉ nhất thời, chế độ nào cũng chỉ nhất thời rồi sẽ bị mai một nhưng đất nước ngàn thu vẫn còn đó.
Đúng hay sai, hãy để lịch sử mai sau phê phán

       Theo GS Hưng, ông Thiệu không muốn viết hồi ký vì "sau khi tôi làm lãnh đạo của miền nam gần 10 năm, tôi biết quá nhiều chuyện, và khi tôi nói cái hay thì tôi cũng phải nói cái dở nữa."Ông Thiệu được cho là đã nói: "Người Mỹ đã phản bội mình rồi, cho nên mình cũng không nên vạch áo cho người xem lưng, và tôi chẳng cần để ý tới dư luận Mỹ nữa." Theo giáo sư Hưng đó là lý do chính tại sao ông Thiệu không muốn viết hồi ký.
Trước đây khi được GS Hưng yêu cầu nói rõ về vụ 16 tấn vàng, ông Thiệu nói: "Tôi đã làm hết sức mình rồi cho nên dù có nói ra, thì người đời sẽ nói rằng tôi cố tình chạy tội mà thôi."Trong cuốn sách, GS Hưng cho hay cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã im lặng trong suốt thời gian sống ngoài nước, trừ một lần trả lời báo Đức, tờ Der Spiegel năm 1979.


  
Tăng quân là để rút lui?
(Tại vì đọc giả không xem 2 tác phẫm “The New Legion” nên không nắm chắc được mấu chốt của sự xuyên tạc, bóp méo sự thật, vì đây là một cuộc Picnic huấn luyện lớn nhứt để WIB kiếm lợi-nhuận, GI là hành khách booked trước vé máy bay cho cuộc du hành huấn luyện đánh trận thật để nâng đở hảng Boeing không bị Bankruptcy vì có GI luân phiên thay quân mỗi năm cho gần 4 triệu lượt air-passagers để biết mùi phi cơ thế hệ phản lực Jet Engine mới ra đời kể cả trực thăng phản lực)
GS Nguyễn Tiến Hưng cho biết trong những lần đàm luận tại Luân Đôn, ông Nguyễn Văn Thiệu đã cho rằng Tổng Thống Mỹ Johnson, một người được cho là lập trường diều hâu, "đem quân vào Việt Nam là để thương lượng ở thế mạnh." Ðiều nầy không xác đáng
vì chính sách không phải tổng thống Mỹ nắm giử mà ở trong tay War Industries Board, vì thế 4 đời tổng thống Mỹ mới bị hoạn-nạn vì chỏi ngược chính sách. Thí dụ: TT J.F Kennedy phải bị thảm sát, TT Johnson phải rút lui không dám tái ứng cử kỳ-2, đây là hiện tưởng khó xảy ra trong lịch sử nước Mỹ, TT Nixon phải từ chức vì sự tạo dựng lên vụ Watergate do WIB chủ đạo để vô hiệu hoá những bức thơ riêng tư giữa 2 tổng thống, TT Ford bị buộc tay chưn đứng nhìn miền nam sụp đổ, UCV tổng thống Robert Kennedy hứa sẽ đem quân Mỹ về xứ liền bị thảm sát giống y chang người anh, nói tóm lại bất cứ ai làm trở ngại trục sách lược Eurasian đều bị triệt hạ.


     Vào đầu năm 1964, khi ông Johnson lên thay cho TT Kennedy bị ám sát, chính phủ Mỹ đã cho bộ trưởng McNamara (thành viên Skull and Bones) sang Việt Nam hứa đủ điều, rồi đề nghị 12 biện pháp rất mạnh trong đó, yêu cầu chính phủ Việt Nam đặt Miền Nam vào thế chiến tranh bằng một lệnh tổng động viên để "mưu cầu một nước Việt Nam không cộng sản" song hành với quân BV tiến bước hàng trung đoàn xuyên qua xa lộ Harriman [đường mòn Hồ] có Liên Xô bảo đảm thiêt bị hệ thống ống dẩn dầu để chiếm lỉnh miền nam, (có nghĩa là thống nhứt VN theo như những gì mà chỉ có duy nhứt phái đoàn Mỹ cương quyết không chịu chia đôi VN (Genève 1954) và ngày 30/4/75 mới đúng là thời điểm Decent Interval thống nhứt VN sau khi Mỹ hốt khá nhiều lợi nhuận)
Sau đó, Mỹ tăng quân viện cho miền Nam Việt Nam và đồng thời mở ra các chiến dịch như là Mũi Tên Lên vào tháng Tám cùng năm, rồi đến chiến dịch Phi Tiêu Lửa oanh tạc miền Bắc rất dữ dội mà họ gọi là escalation, sẳn sàng để leo thang chiến tranh
Đến tháng Ba năm 1965, quân đội Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng sau khi ngụy tạo Hà Nội khiêu khích về Vịnh BV 1964, và bước tháng Tư, Theo chủ đạo của WIB buộc các tổng thống phải tuyên bố theo sách lược: Tổng Thống Johnson tuyên bố sẽ ở lại miền Nam bao nhiêu lâu còn cần thiết, “nuôi dưỡng chiến tranh” với bất cứ sức mạnh nào còn cần thiết, với bất cứ nguy hiểm nào, phí tổn nào" như Tổng Thống Kennedy đã nói "We shall bear any burden" khi nhậm chức. Tất cả danh từ dao to búa lớn đều do WIB vẻ vời như TT Johnson nói rằng không muốn những thằng boy Mỹ phải chiến đấu tại bãi biển Wikiki, còn như bải biển Miami thì sao? Cũng như Tổng thống Nixon từng đe dọa "cắt đầu ông Thiệu" chuyện nầy ba xạo do WIB dựng lên cho tin giựt gân, Bush-Con “người dân miền nam không chịu chiến đấu cho sự tự do nên ngày nay họ không có
Tháng Sáu năm 1965, TT Johnson đã gởi vị tướng kinh nghiệm nhất của quân đội Mỹ là tướng Westmoreland đến Việt Nam để chỉ huy quân đội và một tháng sau, đã bổ nhiệm một vị tướng khác là Maxwell Taylor làm đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, để chuẩn bị dư luận sẽ có đánh lớn nhưng điều tối kỵ là không được đụng đến Xa lộ Harriman, đến khi vì danh dự của là vị tướng phải chiến thắng, Westmoreland liền bị triệu hồi về Mỹ vì dám ra trước Quốc Hội đòi đánh vào và chốt chận ngay yết hầu Xa lộ Harriman
Trong bối cảnh đó, ông Thiệu lên làm Chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia vào tháng Sáu năm 1965 và tướng Kỳ làm Chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương
Theo GS Hưng, ông Thiệu và các tướng lãnh đều thấy rằng Mỹ quyết chiến và quyết thắng tại miền nam Việt Nam (Quả thật ông Hưng không biết gì cả)
Nhưng chẳng mấy chốc sau đó, Bộ Trưởng McNamara lại rỉ tai ông Thiệu và nói là phải tổ chức bầu cử tổng thống và bầu cử quốc hội cho sớm để còn điều đình với Mặt Trận giải Phóng Miền Nam. Tại sao phải điều đình, VNCH và miền Bắc đều bị CIA trực tiếp hoặc gián tiếp do CIA chi phối
Mãi sau này với thời gian, ông Thiệu mới chiêm nghiệm câu "đem quân vào để điều đình ở thế mạnh," và "đem quân vào là để rút quân đi." Ðây là axiom-3: The US could not have won the war under any circumstances” mà WIB đả công bố rỏ ràng trước các đại học, trước khi quân Mỹ qua VN và ngày 21/9/1960 NSC đả ra nghị quyết huy chương “Việt Nam chiến dịch bội tinh” cho lính Mỹ sẽ tham chiến tại VN
Không kết quả
Trong số này, có bức thư của TT Johnson gởi cho Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày Tám tháng Hai năm 1967 trong đó, Hoa Kỳ mong muốn đi đến một giải pháp hòa bình, nhưng không hiểu vì một lý do nào đó, các nỗ lực mưu tìm hòa bình không đi đến một kết quả nào là do trục KGB/CIA đạo diển để nuôi dưởng chiến tranh. Khi có sự xung đột giữa TQ và LX, Hà Nội toan tuyên bố không dự trò chơi cưởng chiếm miền nam nữa, Hoa Kỳ thất kinh, bèn dùng C-130 không số thả đồ tiếp tế cho Hà Nội (hình giãi mật do phóng viên Ðông Âu, trang 95, Volume-1 một đoàn xe thồ do dân công khuân vác đi dọc theo xa lộ Harriman, nhưng vì gấp quá lại quên bôi chử “Handle with care” nơi các thùng gổ
Một tuần lễ sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đáp lại một bức thư nói rằng "nếu như Ngài muốn đàm phán trực tiếp với nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, thì phía Hoa Kỳ phải ngưng ngay các vụ oanh tạc vô điều kiện". Lúc nầy mọi quyền hạn đều nằm trong tay triều-đại Lê Ðức Thọ, Hồ bị cách ly, tướng Giáp như bị học tập cải tạo về tư tưởng, và tướng Chu Văn Tấn bị đày đoạ và chết trong tù
Hai bức thư này được lưu lại trong hồ sơ của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ về cuộc chiến Việt Nam gồm tổng cộng 12 tập, cho thấy phía Hoa Kỳ từ năm 1965 đã 26 lần tìm cách bắt liên lạc với chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa qua nhiều ngả khác nhau để điều đình hòa bình.
Nay với thời gian, GS Hưng nói rằng có thể là vì một "vấn đề nhận thức" gây ra bởi các "tín hiệu trái ngược nhau" mà 26 lần tìm cách bắt liên lạc này, không đi đến một kết quả nào. Thí dụ như cũng có thể là Mỹ đề nghị điều đình ngày hôm trước thì hôm sau lại oanh kích Bắc Việt còn mạnh hơn hôm trước
Theo GS, có thể vì các tín hiệu trái ngược nhau mà cuộc chiến cứ leo thang.
Cuộc chiến 'ủy nhiệm'
Trước khi đắc cử tổng thống Mỹ, ông Nixon đã từng nói cuộc chiến tại Việt Nam không phải là cuộc chiến giữa hai miền nam bắc Việt Nam, hay là giữa Hoa Kỳ và Cộng Sản Việt Nam, mà thực sự ra là một cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Theo GS Hưng thì TS Kissinger và TT Nixon cho rằng tất cả những sự thành công của Hoa Kỳ tại Việt Nam đã giúp cho chiến lược của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc.
GS Hưng nói rằng theo như sự suy nghĩ của hai người này thì "cũng vì sự cứng rắn của Hoa Kỳ - mang nửa triệu quân tới Việt Nam rồi xúc tiến chương trình Việt Nam hóa cuộc chiến - mà đã thuyết phục Trung Quốc mở cửa bang giao với Hoa Kỳ."


   
Ra mắt tiểu sử chính thức về Kissinger và 1973
Sử gia Anh, Sir Alistair Horne, được cựu ngoại trưởng Henry Kissinger chọn để viết về cuộc đời ông trong năm quan trọng 1973
Cuốn sách "Kissinger: 1973, A Crucial Year" ra mắt ở Mỹ đầu mùa hè này và được phát hành ở Anh ngày 31/08.
Sir Alistair Horne, kém Kissinger chỉ ba tuổi, kể lại rằng ông đến New York để gặp Tiến sĩ Kissinger.
"Ngài cho phép tôi nghiên cứu một năm trong cuộc đời ngài có được không?" Sir Horne kể lại.
"Thần sắc ông ấy có vẻ u ám, ông ấy hỏi 'Năm nào?' Và tôi nói, '1973'. Thật ngạc nhiên, mặt ông sáng lên, 'Tuyệt, chúng ta làm đi.'"
Năm 1973 là năm cột mốc trong sự nghiệp Kissinger: lèo lái quan hệ Mỹ - Trung vốn đã mở ra từ năm trước đó, thương lượng hiệp định Paris đưa Mỹ triệt thoái khỏi Việt Nam, và bắt đầu tiến trình hòa hoãn với Liên Xô.
Bài điểm sách của tạp chí The Economist nhận xét về tác phẩm:
"Phiên bản được chuẩn thuận của Sir Alistair, tuy có chỉ trích, nhưng chắc chắn thiên vị. Dù các thành tựu ngoại giao của ông Kissinger có ngoạn mục tới đâu, có thể cho rằng nhiều hậu quả lâu dài của chúng không phải luôn tốt lành gì."
The Economist chỉ trích cách diễn giải của tác phẩm về vụ Watergate, làm Tổng thống Nixon mất chức.
Theo bài điểm sách, Sir Horne đổ tội cho báo Washington Post là "vô trách nhiệm" và "cướp đi của thế giới một thời đại hòa bình, nhờ vào thiên tài chiến lược tuy có khiếm khuyết của ông Nixon và khả năng ngoại giao tuyệt hảo của ông Kissinger".
Cũng theo The Economist, Sir Horne có vẻ quá ngưỡng mộ khả năng chính trị của ông Kissinger mà quên rằng ông này "thờ ơ trước những biến đổi nội tại của các quốc gia. Ông xem họ như những quân cờ, vừa tâng bốc vừa dọa nạt lãnh đạo các nước, và hình như chỉ tôn trọng họ nếu họ có thể củng cố sức mạnh Mỹ".
Sir Alistair Horne chuyên viết về nước Pháp hiện đại, và đã được nước này phong tặng Huân chương Bắc đẩu bội tinh.
Tác phẩm năm 1977 của ông, A Savage War of Peace, về thất bại của Pháp ở Algeria, được xem là tài liệu khuôn mẫu về cuộc xung đột
Nhắc lại chuyện xưa Watergate (PG bảo trợ đầu tư cuốn phim cho âm mưu bóp méo sự thật: Một cảnh trong phim "The president's man" mô tả việc làm của hai nhà báo Bob Woodward và Carl Bernstein” Hai cựu ký giả của nhật báo New York Times nhìn nhận họ đã để sót một trong các câu chuyện lớn nhất từ trước đến nay: đó là vụ bê bối Watergate. Họ là những người đầu tiên đã biết chuyện có một số nhân vật cao cấp của chính phủ - kể cả Tổng Thống Richard Nixon - có dính líu vào.
Nhà báo Robert Smith lúc đó đã thông báo cho chủ biên Robert Phelps nhưng rồi câu chuyện đã bị bỏ sang một bên. Vụ này sau đó đã được hai nhà báo Bob Woodward và Carl Bernstein của tờ Washington Post khai thác và được dàn dựng cho cuốn phim "All the President's Men" ( Người của Tổng Thống).
Câu chuyện bắt đầu vào ngày 17 tháng Sáu năm 1972 khi một nhóm người bị bắt gặp đang đột nhập vào tòa nhà Watergate tại Washington DC. Họ đang cố cài một số dụng cụ nghe lén vào văn phòng của Ủy Ban Toàn Quốc đảng Dân Chủ.
Robert Smith nói rằng hai tháng sau đó- vào đúng ngày cuối khi còn làm cho tờ New York Times - ông có ăn trưa với quyền giám đốc FBI, ông L. Patrick Gray.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho đài BBC, ông Smith đã kể lại lúc mà ông Gray bắt đầu 'phun' ra chi tiết về vụ đột nhập vào tòa nhà Watergate, rồi sau đó là một loạt các sinh hoạt chính trị bất hợp pháp và rồi chính quyền của ông Nixon đã cố che đậy toàn bộ vụ này.
Ông Gray nói rằng trong số những người nhúng tay có cựu Bộ Trưởng Tư Pháp ông John Mitchell và ông Donald Segretti, tức là hai người đã điều khiển chiến dịch tái tranh cử của Tổng Thống Nixon. Cả hai sau đó đã bị tống giam.
Nhưng ông Smith muốn biết thêm chi tiết và hỏi lại: "Ở trên có nhúng tay vào không?' và ông Gray nhìn trừng trừng vào tôi (ông Smith) và tôi hỏi tiếp 'Tôi muốn nói là Tổng Thống' với vẻ mặt hơi hoài nghi".
"Ông ấy nhìn thẳng vào mắt tôi, tôi nhìn thẳng vào mắt ông ta, và trong nghề làm báo của tôi, đó là một sự xác nhận."
Ông Robert Smith chạy vội về văn phòng đại diện của tờ New York Times tại Washington và đã nói toàn bộ câu chuyện cho chủ biên Robert Phelps.
Tìm hiểu
Ông ấy nhìn thẳng vào mắt tôi, tôi nhìn thẳng vào mắt ông ta, và trong nghề làm báo của tôi, đó là một sự xác nhận.
Robert Smith
Ngày hôm sau, ông Smith rời tờ báo để theo học tại trường đại học luật Yale Law School.
"Tôi tiếp tục đọc tờ báo này và tôi không thấy bài này xuất hiện trên mặt báo. Tôi chỉ có thể đoán rằng ban biên tập của New York Times không cảm thấy câu chuyện này có thật."
Ông Phelps cũng đã nhìn nhận những lời kể của ông Smith là xác thật trong cuốn hồi ký mới được xuất bản có tự đề là "God and the Editor: My Search for Meaning at The New York Times".
Nay, 89 tuổi, ông cho biết là không thể nhớ tại sao 'tin nóng' này không được triển khai. Một tuần sau khi nói chuyện với ông Smith hồi năm 1972, ông đi nghỉ mát một tháng.
Câu chuyện này đã được hai ký giả Woodward và Bernstein, thuộc một tờ báo cạnh tranh là tờ Washington Post, khai thác và sau đó được nổi tiếng với loạt bài phóng sự điều tra Watergate của họ.
Cũng đã xác nhận nguồn tin cung cấp chính là "Deep Throat", tức là ông Mark Felt, phó giám đốc của Patrick Gray tại FBI.
Phóng sự điều tra của tờ Washington Post đã dẫn tới việc Tổng Thống Nixon đã từ chức hồi tháng Tám năm 1974.
Ông Smith, nay hành nghề luật sư tại San Francisco, rất 'máu' sự thành công của hai ký giả Woodward và Bernstein. Do người bên trong bỏ tiền làm nên ..
Ông nói "Họ hoàn toàn xứng đáng được hưởng thành quả của các nỗ lực tuyệt vời của họ." 

Ðừng tin Mỹ giải mật hồ-sơ chiến tranh VN (tiếp-theo)

Tài liệu “Hồ sơ Lầu Năm Góc” về chiến tranh VN, từng gây chấn động nước Mỹ 40 năm trước, vừa chính thức được giải mật, vì phần đông chứng nhân đều qua đời? Có một thế lực chủ quan (permanent Government) như họ đã từng bóp méo hay che dấu kín đáo qua chiến tranh thứ nhứt và thứ nhì? Nhưng họ quên rằng hiện nay nhiều nhân-chứng-cớ đã ghi lại chi tiết hoá những dữ kiện mà họ khó có thể bưng bít được trong youtube, books, internet, Wikileaks …như dưới đây tôi đưa ra những bằng chứng cụ thể không chối cải được khi họ cố tình bóp méo như chuyện chiến tranh VN:
     Ngày 12/5/2011, chính phủ Mỹ thông báo (xem như đóng cửa hồ sơ về VN) tập tài liệu nói riêng “Hồ Sơ Lầu Năm Gốc” không còn được xếp vào loại tài liệu tuyệt mật nữa: AFP dán thông báo cho hay từ đầu tháng tới, người dân Mỹ có thể tiếp cận trực tiếp tài liệu nầy tại thư-viện Tổng thống Richard Nixon ở Yorba Linda, California. Khi xuất hiện lần đầu tiên trên trang nhứt The New York Times ngày 13/6/1971 “Hồ Sơ Lầu Năm Góc” gây chấn động dư luận khi chứng tỏ bốn đời tổng thống Mỹ, đặc biệt là chính quyền của ông Johnson đã lừa dối công luận một cách có hệ thống về cuộc chiến? (Ðiều nầy P.G hoàn toàn bóp mép sự thật) P.G lấy lý do tạo ra làn sóng phản chiến dữ-dội và buộc Johnson quyết định không ra tái ứng cử kỳ-2? (nhưng sự thật vì áp lực của nhóm War Industries Board, đến nổi đệ nhứt phu nhan phải kinh hoàng và có lời “dù ai có thiết-tha đề nghị!” cũng như Donald Rumsfeld tham mưu trưởng WSAG tạo dựng vụ Watergate qua thiết kế viên Richard Helms, để hoá giải hiệu quả những bức thư “riêng tư” của Thiệu/Nixon theo axiom-1
Họ cố tình bóp méo sự thật, qua 7000 trang hồ sơ được chia thành 47 tập, làm cho người dân Mỹ lầm tưởng chính quyền của TT John F Kennedy đả cố ý định lật đổ TT Ngô Ðình Diệm từ trước khi xảy ra đảo chánh ở Miền nam VN. Hồ sơ nầy khiến dân chúng Mỹ đi từ bàng hoàng đến phẩn nộ, không chỉ người dân mà ngay đến Quốc Hội Mỹ cũng đả bị lừa dối trong nhiều năm trời,
(TT Bush con lửa dối QH việc Iraq có vủ khi giết ngưới hàng loạt thi làm gi nhau?)

    Phải lý luận liên hệ với thực tế, có nghĩa đừng nhắm mắt tin tưởng vào hồ sơ mật mà không mật, chỉ với mục đích chạy tội hay dấu kín tên tuổi, nhưng trong hai tác phẫm “The New Legion” thì chỉ rỏ mặt mũi với chứng cớ hiển nhiên, như chính William Averell Harriman (1891-1986) ra lịnh giết anh em Diệm/Nhu: Thuận lý nhưng không thực tế: Trên Youtube, cái gọi là cuốn phim bị chính phủ Hoa kỳ dấu kín suốt 37 năm???!!! Tôi cho rằng cuốn phim mà người đọc thoại lãi-nhãi nói rằng sự thảm sát hai anh em Diệm Nhu có sự đồng tình của TT Kennedy là hoàn toàn sai sự thật, tôi sể chứng minh sau. Đứng về phương diện “thuận-lý” các ký giả thế giới buộc tội Kennedy là hoàn toàn đúng, vì chính phủ Mỹ, (Tổng thống Kennedy) đương kim phải chịu trách nhiệm về hành động nầy; Riêng ký giả Việt thì khác, mình phải chứng minh rỏ ràng hơn đâu là sự thật, có trách nhiệm phải trả lại tính trung thực cho lịch sử của nước mình, thậm chí có nhiều ký-giả gạo cội, lảo thành cứ cho đó là chắc nịt đúng 100% … rồi còn nguyền rủa sự bất hạnh của dòng họ Kennedy là đáng kiếp… gây gió thì phải gặt bảo… Dưới đây tôi xin đưa ra các sự kiện để chứng minh với liên hệ thực tế về sự tàn độc của Permanent Government:
       - A) Công điện ngày 29 October 1963, Đại-đế dấu mặt Permanent Government, ở vị thế khiêm nhường, số 3 của Bộ Ngoại Giao là William Averell Harriman said:
(Meeting on Vietnam,
10/29/63 Memorendum 317)
“With the passage of the time, our objective in Vietnam will become more and more difficult to achieve with Diem in control” …còn như TT Kennedy không cho đem quân tác chiến Mỹ qua VN thì P.G tính sao?
       - B) Một ngày sau, cuộc dảo chính
đang bộc phảt, theo lệnh TT Kennedy, Cố vấn Tổng thống, Mc George Bundy (nhưng lại là thành viên Skull-and Bones-40 đối lập với Kennedy) the White House, on 30/10/63 to Ambassador Lodge/Vietnam; Top secret eyes only for ambassador Lodge:“We do not accept as a basic for U.S policy that we have no power to delay or discourage a coup. In paragraph 12 you say that if you were convinced that the coup was going to fail you would of course do everything you could to stop it. We believe that on this same basis you should take action to persuade coup leaders to stop or delay any operation which, in your best judgment, does not clearly give high prospect of success…” (Chứng-cớ TT Kennedy vẫn còn binh vực TT Diệm đến giờ phút cuối cùng)
       - C) Đầu-mối của hai vụ thãm sát TT Kennedy và TT Diệm:
Ngày 20/11/1963 có cuộc họp mật rất khẩn cấp tại Honolulu, Thành-viên Skull and Bones ám số 40 là Mc George Bundy, đại diện Permanent Government lôi cho bằng được hai Bộ trưởng Quốc Phòng Mc Namara và Ngoại Giao Dean Rush đến Honolulu cùng Đại sứ Cabot Lodge và Tướng Paul Harkin từ Viêtnam bay qua để nhận chỉ thị khẩn cấp (18 ngày TT Diệm đã bị thảm sát và 2 ngày nửa TT Kennedy cũng sẽ phải bị ám sát, vì 2 vị nầy là trở ngại chính của kế-hoặch Counter Insuygency Plan, tại sao CIP quan trọng như vậy, xem trong tác phẩm “The New Legion”)
- 1) loại bỏ năm Tướng lảnh phản loạn ra khỏi cơ quan quyền lực (Đôn, Đính, Vỹ, Kim Xuân)
- 2) Giải thể Ấp Chiến Lược, Thanh Niên Thanh Nử CH, các Cơ quan tỗ-chức tình Báo
- 3) Ngụy tạo sự kiện Vịnh Bắc Việt khiêu khích để “trả-đủa” không tuyên chiến
- 4) Thành lập hàng rào “điện-tử McNamara” để kiễm soát số lượng lính BV thâm nhập vô nam
- 5) Chỉ định McNamara làm Trưởng điều hành cuộc chiến Việt Nam “Commando Vaught”

        Theo nhận xét của riêng tôi, nếu TT Diệm vẩn còn ở Dinh Gia Long, cụ sẽ được bảo toàn sanh mạng nhưng phải lưu vong qua Philippines, vì sự thật đối với thế lực Skull and Bones, cụ rất nhẹ ký hay nói không đáng quan tâm. Nhưng còn TT Kennedy phải buộc bị thảm sát với bất cứ giá nào vì lý do:
- He didn’t want send troops far away from home (quotes by 2 ladies historian, Marilyn B Young and Ellen Hammer)
- He don’t want to become military involved. He praised the agreement for allowing the
United States to avoid military intervention
- He would withdraw the troops, any number of troops, any time the GVN would suggest it
(President Diem and his brother political adviser, Nhu would like withdraw all U.S. troops as soon as possible)
- And the most important is in October, 1963, Kennedy administrative cut off aid to Diem in a direct rebuff …and prepare troop withdrawn.
- Billion to billion C-Ration for US combat-troop were already produced in 1961 and 1962,
(Every can-lid marked month and year for expired date, according Aid to Russia 1941-46 Plan)
- He don’t care about American-First [because for only WIB’ Bones]
- Kennedy told O’Donnell, his White House Aide “So We had better made damned sure that I’m reelected” His presidency included some of the tensest moments of the Cold-War, but Kennedy was convinced that the true power came from democratic ideals, not military might of republic trend. Could you think The CIP has come undone … aborted? NO WAY!

      Năm 1968, người em Robert Kennedy vừa được đảng Dân Chủ tín nhiệm là ứng viên tổng thống, R. Kennedy tuyên bố sẽ đem lính Mỹ về nếu đắc cử, là ông bị ám sát ngay tức khắc. Tại sao Kế hoặch CIP quan trọng quá vậy!? Đến nổi đương kim tổng thống LB Johnson buộc phải từ bỏ tái ứng cử kỳ II, vì cá mè một lứa với người tiền nhiệm, tiếp tục theo đuổi đưa bọn WIB ra toà vì vi phạm hiến quyền the Trading with the Enemy Act; Ngay đến Đệ 1 phu nhân Johnson cũng kinh hải chua vào câu “Dù có ai tha thiết yêu cầu chồng tôi tái ứng cử Kỳ-2, một hiện tượng kỳ lạ trong lịch sử nước Mỹ mà ít nhà bình luận nào dám nhắc đến! Như cuốn phim cuối cùng của nhà đạo diễn gạo cội John Ford (1894-1973) đoạt 4 giải Oscars vào năm 1973, Ford nhận giải AFI Life Achievement Award cùng năm (Ford was awarded the Presidential Medal of Freedom by President Richard Nixon) Nhưng không may thay luật pháp Hoa Kỳ ngăn cấm chuyện trình chiếu bất cứ một phim ảnh nào phải do Cơ quan truyền thông Hoa Kỳ kiễm-duyệt (United States Information Agency) vì thế phim của Ford phải khóa chắc trong tủ sắt suốt 37 năm cho đến ngày nay, khi luật pháp đạt tới điểm mốc thời gian thay đổi (Decent Interval) cho phép phim được chiếu cho công chúng xem.

Thế nên Hoa Kỳ có tự do về thông tin tư tưởng?
Xin trân trọng giới thiệu bài viết về một cuốn phim đã bị chính phủ HK dấu kín suốt 37 năm qua.
* Đây là một phim tài liệu rất có giá trị về sự thật của chiến tranh VN, với cái nhìn công bằng và khách quan của người Mỹ.
* Người chuyển đã tìm lại được cuốn phim này trên Youtube.
- Mời bấm vào đây để coi toàn bộ cuốn phim gồm có 8 phần (không kể những video clips tài liệu phụ dẫn): ==> http://www.youtube. com/results? search_query= vietnam+vietnam+ john+ford&search_type=&aq=5
Phim Vietnam! Vietnam được công bố sau 37 năm bị dấu kín !!!
Phim đang phổ biến trên mạng Internet tên "Vietnam, Vietnam" được cho là cuốn phim cuối cùng của nhà đạo diễn gạo cội hàng đầu của Hoa Kỳ John Ford (1894-1973) Ông đoạt tất cả 4 giải Oscars vào năm 1973, ông nhận giải AFI Life Achievement Award cùng năm. Ford was awarded the Presidential Medal of Freedom by President Richard Nixon. Phim bắt đầu quay vài tháng sau cuộc tổng công kích Mậu thân (1968) và cho đến khi cuộn phim được hoàn tất vào cuối năm 1971
Vào lúc đó luật pháp liên bang của Hoa Kỳ ngăn cấm chuyện trình chiếu bất cứ một phim ảnh nào do Cơ quan Truyền Thông Hoa Kỳ (United States Information Agency), trong đó có phim
"Việt Nam! Việt Nam” Cho nên phim tài liệu cuối cùng của ông John Ford đã được khóa kín trong két sắt 37 năm trời cho đến khi luật pháp được thay đổi cho phép phim được chiếu cho công chúng xem. Sự thật nước Mỹ có tự do ngôn luận hay không, nếu chúng ta phạm đến những điều cấm kỵ tối mật của chính sách, như tướng Mc Arthur bị cách chức vì lý do không được nói đến chính sách “Unauthorized Policy Statements?

 Dưới đây là một sự thật thanh toán bằng máu sau hậu trường chính trị của nước Mỹ:
Thanh toán đẫm máu trong chính trường Mỹ cần phải che dấu kín?
Trong số tài liệu tối mật Wikileak, tôi chọn ra vài chứng cớ dính líu vào cuộc chiến VN: Trên trục lộ-đồ Eurasian, tất cả tổng thống Mỹ đều là thay phiên làm tổng quản lý (general manager) TT nào bị đặt vào ống kính là chướng ngại vật đều phải bị “trục-bứng” ra khỏi con lộ nầy như: anh em Kennedy [vì cướng quyết tiêu diệt Skull and Bones qua lập lại 1942 Trading With The Enemy Act, ban hành 1941, xem tài liệu dưới đây] TT Johnson [không được quyền tái ứng cử kỳ-2 vì đeo đuổi chính sách y chang người tiền nhiệm, có nghiã toa rập với Bộ trưởng Tư Pháp Robert Kennedy tiếp tục triệt tiêu Harriman và Bushes theo hiến luật TWEA) Nixon (Watergate) Reagan [ra lệnh cấm bán lúa mì cho Liên Xô, bồ-tèo partner làm ăn của Permanent Government về Aid to Russia 1941-1946 Plan renewed và reactivated] cho đ
ến giờ nầy, VN vẩn      được có tàu ngầm và phi cơ tối tân là nhờ Mỷ cà Credit Card để trả tiền cho nhân công LX,       tạm trong thời gian, sau khi bỏ lịnh bán vũ khí sát thương cho VN, vì TQ tính đem giàn khoan    tối tân vào vùng kinh tế VN. Không bao giờ Mỹ để cho TQ nắm vòi xăng
(Tài liệu internet: Under the World War I era Trading With the Enemy Act. However, rates established by the infamous Smoot-Hawley Tariff Act of 1930; The Trading with the Enemy Act 'any person not an enemy or ally of enemy' who claims an interest in vested property and fails torecover it by ...)
- (A) Giai đoạn xạt nghiệp:
Permanent Government 1942 (Skull and Bones) bị tịch thu, Confiscation all dates back to the Trading with the Enemy Act of 1917. That year, President Woodrow Wilson signed the “TWEA” into law,
http://www.silvermonthly.com/.../gov...recould-happen "Under the Trading with the Enemy Act, the government took over the Union Banking Corporation, in which Bush was a director. The U.S. Alien Property ... President Franklin Delano Roosevelt signed the Trading With the Enemy Act after it had been made public that U.S. companies were doing business with the ...
http://www.lycos.com/.../franklin-de...roosevelt.html By 9(a) of the Trading with the Enemy Act 'any person not an enemy or ally of enemy' who claims an interest in vested property and fails torecover it by ... ... 1942, an embargo was imposed on the Silesian-American Corporation - another firm headed by Bush and Walker - under the same Trading with the Enemy Act. ... Prescott Bush was a director of the Union Banking Corporation, which the U.S. government took over in 1942 under the Trading with the Enemy Act. The U.S. .. His business dealings, which continued until his company's assets were seized in 1942 under the Trading with the Enemy Act, has led more than 60 years later ... The seizure order, issued under the Trading with the Enemy Act, described Silesian-American as a “US holding company with German and Polish subsidiaries” ...more on Bush family, Doing business with the enemy is nothing new to the Bush family. ... Seized by the US government during World War II under the Trading with the Enemy Act www.rense.com/general14/bushsformer.htm
- (B) Giai đoạn dùng luật rừng
(Harriman cuong quyet: “Ði với Bụt mặc áo cà xa đi với ma mặc áo giấy” đó là lý do, sáng lập viên W A Harriman đặt cho cái tên là Skull and Bones 1920 (permanent Government)
Trading With The Enemy Act of 1917 was used by President Kennedy in 1962 to ban virtually all trade and commerce with the Castro regime and also focusing on Bushes. ... 02.03.61 The U.S. government announced it was considering, in the case of Cuba , the enforcement of the Trading with the Enemy Act http://www.certifiedcubanclaims.org/...rade_enemy.htm
www.hermes-press.com/germany1930.htm -http://www.rense.com/general40/bushf...ndedhitler.htm -
openjurist.org/.../bank-voor-handel-en-scheepvaart-nv-v-f-kennedy-nv-hollandsch-amerikaansche-beleggings-maatschappij
- (1) Vietnam: Trading With The Enemy or investing in the future, by FG Connor - 1994 - Cited by 7 - Related articles
- (2) At that time, federal regulations
- (3) promulgated under the authority of the Trading With the Enemy Act (TWEA)
- (4) prohibited virtually all economic ...
(Kennedy thi hành đúng hiến pháp) hậu quả phi công anh hùng thời chiến dùng luật Cow Boy Texas George H W Bush (Bush-Cha) phải ta tay thanh toán JFK killed just days after shutting down Rothschild’s Fed Reserve Apr 19, 2011 ... AFTER 1913 ~ The Glass Steagall Act Enacted By FDR blocked all attempts by ... Well They Turned Another Enemy To Rothschild/Hollywood Media Into A ... Operatives Who's Job Is To Orchestrate Insider Trading Mechanisms. ...
politicalvelcraft.org/.../jfk-killed-just-days-after-shutting-down-rothschilds-fed-reserve-in-1963-secret-memo-shows-president-signed-executive-orders...
Thế là Skull and Bones cứ phon phon go ahead Oct 3, 2001 ... One of their businesses that violated the TRADING WITH THE ENEMY ACT became what the Halliburton company which Dick Cheney ran until he,

 

  
KQ TRUONG VAN VINH