Saturday, July 30, 2011

Trận Ấp Bắc, thực chất và huyền thoại


“Từ bi-kịch trở nên tấn thãm kịch đau thương đẩm máu nhứt trong lịch sử Việt Nam”

     Đứng trên học thuyết quân sự, đổ quân ở tuyến sau của VC, có nghĩa là dồn Chó vào chân tường bắt buộc chúng phải rời bỏ nơi phòng thủ; đây là một chiến thuật cấm kỵ khi điều quân, nhưng Thiếu-tá Thơ đã quên rằng, làm như vậy không khác gì buộc VC phải một mất một còn, tử thủ vì rời nơi đây không khác gì phải chịu cảnh bị tàn sát trên đường lui binh bằng phi-pháo của Saigon. Hơn nữa VC đã chuẩn bị và tử thủ nơi nầy, ít ra cũng còn tới 7 tiếng đồng hồ nửa, vì mặt trời còn mọc, rồi khi màn đêm buông xuống VC sẽ rút lui êm ái như đã có kinh nghiệm trong tháng 10 vừa qua khi đụng độ với BÐQ. Và Thiếu-tá Thơ cũng quên rằng: đổ quân trên một đám ruộng trống trải như vậy, thì càng dể cho Phi-công Hoa-kỳ thiếu kinh nghiệm chuyên môn, nhưng càng nguy hiểm cho Bộ-binh, vì phải hứng chịu bị bắn sẻ khi đang chân thấp chân cao lội bì bỏm vào bờ; chính trên bờ đê có hàng Dừa chạy dài nầy là nơi tử-địa cho quân lấn chiếm, VC đã sẳn sàng phối trí với các lực lượng mạnh nhất và cũng từ nơi ẩn núp phòng thủ kiên cố nhất để sống chết với quân lực Miền Nam.
Vann đang bay ở phía ghế sau của L.19 quan sát vùng Bắc Tân Thới, theo-dõi sự tiến quân của Đại đội thứ 3 vừa mới thả xuống cách đây khoảng 10 phút. Tại một Tăng lều của chỉ huy, nơi sân bay Tân Hiệp, tôi đang túc trực hành quân, nghe Ziegler nóng lòng gọi máy kêu Vann về đáp, để chọn bãi đáp cho lực lượng tăng cường ứng chiến, qua sự yêu cầu của Thiếu-tá Thơ và Đại-tá Đạm cũng muốn như vậy. Vann chưa vội về đáp và đang nghiên cứu về phía Nam của Ấp Bắc nguy hiểm hơn Ấp Tân Thới; cũng có thể VC quy tụ về Ấp Bắc mà rời bỏ Ấp Tân-Thới chăng! Vì cuộc đụng độ vừa rồi, ở hàng Dừa trên bờ đê về hướng Nam; nếu quả như vậy thì Ấp Bắc phải là nơi tập trung quân của VC
Trước khi về đáp, Vann bỏ thêm 15 phút để lượn quanh quan sát thật kỷ, những ranh giới của hàng cây, người Phi công Hoa-kỳ không hài lòng cho lắm, vì chỉ có một cái Ấp nhỏ xíu mà cứ rà qua rà lại không biết bao nhiêu lần, đôi khi Vann bảo bay thật thấp hơn nữa để ông nhìn từng ngọn cây cho rõ hơn, phải chúi mũi xuống giảm bớt tăng tốc lực để ở ghế sau Vann có thể ghé cổ nhìn được tổng quát, thấp như vậy là tối đa rồi, còn muốn thêm nữa thì chỉ có cách bay “độn thổ” mà thôi. Trên thực tế dù bay qua lại cả triệu lần cũng vô ích vì Vann cũng chẳng thấy gì dù rằng chỉ một du kích; Ông chỉ biết VC xuất hiện ở phía Nam vì nơi ấy vừa mới bị đụng trận và những viên đạn khắc nghiệt từ hướng nào bay đến không biết được. Con kinh đào dẫn nước từ hướng Tây mới đáng ngại, vì kinh nghiệm cho ta biết chắc chắn dọc trên bờ đê đã có vô số hầm trú ẩn dưới các dãy hàng Dừa nầy. Chiếc L.19 sơn màu xanh lá cỏ-mạ đang lượn qua lượn lại không biết bao nhiêu lần như để thử nhữ mồi, nhưng VC rất khôn ngoan, chỉ cần một viên đạn bắn lên thôi, thì ván bài của họ sẽ phải trả giá quá nặng, cho nên VC không muốn vẫn đục không khí trong lành. Cảnh vật dưới đây thật hoàn toàn tỉnh mịt, nhưng Vann đâu có dễ dàng tin một sự lắng đọng vô cùng đáng sợ như vậy! Vann vẫn thầm nghĩ: “tuyến hàng Dừa phía Tây là nơi sẽ xãy ra máu lửa, ông nói Phi công trước khi về đổ xăng, hãy liên lạc cho chiếc khác thay thế để ông tiếp tục hướng đẫn Trực thăng vận cho Đại đội tổng trừ bị thứ nhứt vào vùng hành quân trên 10 chiếc H.21 trái Chuối.
Bay yểm trợ cho các Trực-thăng H.21 do một Phi đội gồm 5 chiếc Trực Thăng võ trang UH-1C, loại mới vào thời buổi nầy, đây là loại Trực Thăng phản lực đầu tiên của thế hệ mới nhất đang được phát triễn trên Thế Giới, do hảng Bell chính thức đặt tên là HU.1 Iroquois, nó mới được sản xuất trong vòng 6 tháng và đang được trắc nghiệm hành quân cùng những chiếc trước như HU.1 loại A và B đã ra trước nó cũng không lâu lắm. Đây là loại HU.1-C, cánh quạt ngắn hơn, nhưng bề ngang lại rộng ra đôi chút để tăng thêm tốc lực cũng như vị thế cần uyển chuyển linh động hơn khi nhào lộn bắn phá. Trên chiếc võ trang nầy được trang bị 2 súng Trung liên 7 ly 62, điều khiển tự động xoay chiều bằng điện, gắn hai bên thành của Phi Cơ, trên đó là 2 bó hỏa tiễn 2,75 inch, nhưng có điều hơi lạ là người bắn lại chính là Phi-công phụ.
Có ai hiểu rằng, trên Thế giới nầy, nhất là chính phủ Hoa-kỳ (siêu chánh phủ) sẽ bắt đầu ký hợp đồng làm ra 10.000 chiếc, trong đó gần 4.000 chiếc sẽ dùng vào huấn luyện như một trợ huấn cụ (training-aids) và sau đó sẽ phế thải tại chiến trường Việt Nam, để làm nãn lòng Liên Xô khi muốn bỏ tiền ra để chạy đua vũ trang với Mỹ! Và Hoa-kỳ nhất quyết không mang chúng về để thực hành thế chiến lược đổi vùng (surrogate) mà kiến Trúc Sư Averell-Harriman, tự ngầm cho là “Cuộc chiến tranh lạnh biến thế” Vì không muốn đem chiến cụ về Mỹ, cho nên Nhóm học giả tham mưu cho nó một cái tên có tính cách chính trị gọi là “Việt Nam hóa chiến tranh” rồi sau cùng biến thành những khối sắt vụng vì không có phụ tùng sửa chửa.
Vann chỉ thị cho vị Sĩ quan trưởng của Phi hành đoàn Trực-thăng H-21 đỗ một Đại đội trừ bị, phải đáp xuống bãi đáp cách 300 thước, xa đường ranh của dãy hàng Dừa đầy dẫy cạm bẩy, về hướng Tây Nam của mục tiêu; Vann cũng hướng dẫn đoàn Trực-thăng lấy trục từ hướng đáp cũng như hướng cất cánh để tránh xa tầm đạn của địch. Vì rằng phía Hoa-kỳ chưa thiết lập hệ thống chỉ huy thống nhất nên rất khó để phối hợp hành quân trong nội bộ của họ (nhóm học giả, trong ống kính buộc hành pháp Mỹ sẽ phải thành lập Bộ chĩ huy phối hợp hành quân, và sự liên lạc vô tuyến trì-trệ, không đồng nhứt giữa L-19 với thiết vận xa M-113) Vann không hiểu về kỷ thuật bay cho nên ông không thể nắm quyền điều động mà phải để cho Sĩ quan có kinh nghiệm Phi hành điều khiển, thế nên có những sự đụng chạm trong lúc hành quân, đôi khi làm cho Vann cảm thấy khó chịu, vì không ai chịu nghe theo người không hiểu về kinh nghiệm bay. Thế nên dân bay không bao giờ chịu nghe lời người ở dưới đất cố vấn dạy bảo về kỷ thuật bay, như phải đáp chỗ nầy, chỗ nọ, bao nhiêu thước, hướng nào …nầy nọ. Kết quả, người Trưởng Phi hành đoàn đã đáp gần hơn lời căn dặn của Vann, là 200 thước, cạnh lằn ranh của hàng Dừa, và ngay tại hướng Tây của mục tiêu, thay vì Tây Nam. Trong khi đó là do sự ước tính của Vann, 300 thước là khoảng cách mà đạn Đại-liên M.30 không có hiệu quả gì cả, kể cả những loại đạn súng trường, như trong tầm đạn 100 thước có thể gây tử thương nếu chẳng may nhảy xuống trúng phải giữa tầm đạn. Quả thật Trưởng toán trực thăng đã đáp đúng ngay vào tầm đạn, cho nên tôi tự cho đó là ‘bãi đáp do định-mệnh’ đã an-bày!
Trong khi Vann đang bận chuyển lệnh điều động thì người chỉ huy của VC ra lệnh phải bắn hạ các Trực-thăng, vì nó to lớn kềnh càng quá, nên dễ bị bắn hạ “bằng mọi giá phải bắn hạ các máy bay lên-thẳng của địch” Nhờ có máy SCR 300, nên VC đã theo dõi biết được giờ giấc và hướng Trực-thăng sẽ đáp ở hướng Tây. Đúng 10 giời 20 sương mù đã hoàn toàn tan biến, nhường lại ánh nắng chói chan ẩm thấp, nên hình thù chiếc Trực-thăng trái Chuối càng hiện rõ như con mồi mập béo hấp dẫn, lờn vờn trước mắt của các xạ-thủ đã sẳn sàng chồm súng phục kích từ lâu.

Trung Sỹ-1 Amold Bowers, 29 tuổi, cư ngụ tại cánh đồng nổi tiếng nuôi bò sửa tại tiểu bang Minnesota, thuộc đơn vị Sư Đoàn 101 Dù, nghe một tiếng ‘crack’ như bánh tráng bể, viên đạn thứ nhất xuyên qua khung phòng bằng nhôm của Trực-thăng H-21, trong lúc Trực-thăng đang ở vị thế cận tiến 50 bộ cách mặt đất. Browers đang ngồi trên chiếc Trực-thăng thứ 2 của hợp đoàn 10 chiếc, đối với hắn, đây là cuộc chiến tranh đầu tiên mà hắn đang tham dự; suốt một chuổi dài 8 tháng rưởi chưa bao giờ hắn dự trận, hoặc bị ai rình mò bắn sẽ cả. Tiếng đạn thình lình liên hồi ghim vào thành võ của Trực-thăng…rồi vào bộ phận máy, trước khi bánh xe càng đáp của Trực thăng chạm đất, trên một đám ruộng ngập nước, Browers nhảy theo Tiểu đội của Bộ-binh, nước dưới ruộng ngập tới đầu gối, hắn cố bám sát bên cạnh ngưới Đại đội trưởng VN với niềm tin là gởi gấm tấm thân bồ tượng của hắn; Hắn như là cái bia biết di động cho VC. Tai Browers không còn nghe tiếng nổ ù ù của động cơ Trực-thăng nữa, nhưng thay vào đó là tiếng nổ dòn tan của các loại súng mà do mẫu quốc hắn làm ra, đủ thứ từ Trung-liên BAR cho đến M.30 Đại liên mà hắn hình dung có nhiều ỗ bao quanh những nòng súng, từ rừng cây cao cao, như một bức tường xanh um-tùm dựng đứng trên bờ đê, bắn tua-tủa ra phía trước mặt, không biết bao nhiêu là viên đạn, với tiếng rít lên xuyên qua không khí, làm ù cả tai, nhức cả đầu, và không biết giây phút nào đạn sẽ ghim vào mình đây? Hắn đang nhủi tới nằm sà đại trên lớp bùn đen, lún xuống gần nữa thân hình, và đôi giày Boots của hắn cũng đang nhét đầy nhẹp bùn lầy trong đó, càng làm cho đôi chân thêm nặng hơn; Hắn sực nhớ tới lý thuyết của quân trường căn dặn: “phải linh động và nhanh nhẹn để hy vọng sống còn là phải tiếp tục bò trườn tới, tay súng vẫn bóp cò nhã đạn cho đến khi hắn trườn đến mục tiêu và tiêu diệt đối phương”. Hắn nhũ thầm không biết lý thuyết và thực hành có bao giờ giống nhau không!
Nhưng người Sĩ quan của Đại đội trưởng thì lại phản xạ khác hẳn, tất cả Đại đội đều nằm sấp bên cạnh bờ đê để tránh lằn đạn; đàng trước mặt cho đến nơi chạm tuyến ở hàng Dừa, còn phải trải qua nhiều bờ ruộng đầy sình nước lấp xấp; Từ lúc chạm đất cho tới giờ, mà mới có cách xa chỗ đáp chưa tới 20 thước; Trung Sĩ Bowers thét lên gọi Trung-úy Đại đội trưởng “Chúng ta phải bắn trả mãnh liệt, rồi rút ra khỏi chỗ đồng trống, không thì sẽ chết hết cả lũ ở đây. Vị Trung-úy Đại đội trưởng, coi như không có hắn bên cạnh, nên làm cho hắn càng thêm ngớ ngẫn, ngu-ngơ bực tức, hắn nghĩ thầm: “Hồi ở Phi-trường Tân Hiệp, trong khi chờ đợi lên Trực-thăng, viên Trung-úy nầy nói tiếng Anh giỏi lắm mà...sao bây giờ kỳ vậy?” Vã lại viên Trung úy nầy cũng đã từng tốt nghiệp khóa Đại đội Trưởng ở trường Bộ-binh Fort-Benning Hoa-Kỳ! Bowers không hiểu gì hết đành cũng phải bò trườn theo để mà chịu trận, có thế thôi!
Trung Sĩ Bowers ở trong biệt đội Tham-mưu, Cố-vấn, nhưng hắn lại thích tình nguyện đi hành quân, nhất là tuần tra hoặc xung kích; Sáng nay, Vann có hỏi hắn có thích đi hành quân với Đại đội trừ bị nầy hay không? Hắn đã mau mắn đồng ý ngay, vì Đại đội cũng đang cần có một Cố vấn như bình thường; Vann ngưỡng mộ vì sự nhanh nhẹn tháo vác của hắn; Bowers đang thét lên gọi vị Trung úy ĐĐT một lần nữa; Vị Trung úy nhìn lại với đôi mắt còn đang bối rối trong tầm đạn phục kích, ông ấn mạnh thêm thân hình nhỏ thó lún sâu xuống bùn một chút nữa để được bao che những lằn đạn như mưa phủ tới, từ hàng Dừa trước mặt
Quá thất vọng, lạc lỏng, Bowers bèn đánh mắt nhìn qua phía bên phải, vị Trung-sĩ già Trung đội trưởng, từ một chiếc Trực-thăng vừa đáp xuống ở đằng xa, nhanh nhẹn hướng dẫn Trung đội tiến vào một bờ ruộng cạnh đó và đang đến giao điểm của tuyến hàng Dừa ở tận bờ đê của hướng Nam. Trung đội nầy trông có vẽ thiện chiến và đang trườn dọc theo con đê. Bowers cảm thấy nên giao mạng sống cho Trung Sĩ già đầy kinh nghiệm hơn Sĩ quan mới ra trường; Hắn nhảy xổm đứng dậy, mặc cho đạn tránh người, chớ ngưới không thể tránh đạn, và với hy vọng lớp sình lầy ngấm vào quân phục được ngụy trang đôi chút, khi buộc phải phóng mình đi tìm sự sống trong sự chết, hắn bay tới nằm ì bên cạnh viên Trung-sĩ già, hắn bắt đầu thở hổn hển để phục hồi lại sức lực, lấy lại tinh thần. Vị Trung-sĩ già ra lệnh với âm thanh hùng dũng không già tí nào cả. Và rồi cả Trung đội tiến nhanh vào mục tiêu trước mặt; Lúc nầy Bowers mới nhớ lại hồi xuất phát, hắn cũng đã nghĩ ra là nên đặt niềm tin vào nơi ngưòi có gương mặt gân guốc như một nông dân chất phát, hơn là một gương mặt còn non choẹt của một Sĩ Quan mới ra trường, hay nói cách khác nên tin vào Hạ-sĩ quan hơn là tin vào Sĩ quan.Theo ý nghĩ riêng tư của Bowers, chỉ có người ít học mới thích chiến đấu hơn người có học?
Bowers nghĩ rằng: lần tiến quân nầy hắn phải trườn tới như muốn chui sâu xuống bùn để tới được mục tiêu nơi rặng rừng Dừa trưóc mặt, cũng không cách xa hơn chỗ nầy bao nhiêu, nhất là cái mổng đít của hắn thường nhấp nhô trên mặt ruộng trông dễ hứng đạn của VC. Chẳng bao lâu, Trung đội của hắn đã đến được vùng tương đối an toàn hơn, có nghĩa là mé dãy hàng Dừa, nằm trên bờ đê với vô số chướng ngại vật thiêng liêng che chở. Và đang tiến về cạnh sườn Tây có VC nằm chần dần trước mặt, thế nào cũng sẽ xãy ra một cuộc chạm súng dữ dội, trong khi đó Trung đội bạn cũng đang nằm án ngữ như một bức tường thành. Cả hai Trung đội nầy đang chuẩn bị, không phải là xung phong, nhưng sẽ bắn yểm trợ với cường độ dữ dội để làm nhẹ áp lực cho Đại đội vượt qua khỏi vùng tử địa; Nhưng VC vẫn không chịu từ bỏ ý định nằm bám trụ để tận diệt toàn bộ đầu nảo; Đại đội vẫn còn bị áp lực, không thể tiến hoặc thối được. Bowers mừng thầm, “nếu mình không khôn hồn phóng theo Trung-sĩ già nầy thì chắc sẽ bị bắn bể đít!” Từng tràng đạn Đại liên rồi Trung liên BAR…ôi thôi đủ loại, thỉnh thoảng lại có tiếng nổ của súng cối 60 ly, nhưng chỉ tập trung vào một điểm của Trung úy Đại đội trưởng, chỉ còn cách có hàng Dừa khoảng 150 thước, nhưng không làm cách nào để trườn tới cho được, nếu không nhờ bờ ruộng che chở thì coi như mọi người trong Toán nầy đều bị sát hại cả. Bowers thấy có một người chạy băng qua hàng cây trước mặt, nhưng không biết là ai, cũng có thể là người đưa tin giao liên của VC; Vì trước khi lên Trực-thăng, hắn đâu có được nghe thuyết trình để hiểu được địch tình như thế nào! Nhưng theo linh tính của giác quan, hắn suy đoán, có thể VC ở dọc theo con suối bên phía bờ Đông. Hai trung đội sẽ phải tiến quân băng qua theo con suối từ Tây sang Đông để thanh toán mục tiêu, vì vừa rồi người đưa tin đã chạy ù qua phía bên đó mà không biết hai Trung đội đang án binh bất động chờ lệnh tấn kích, nơi đây họ được dãy hàng Dừa che chở cũng giống như VC trước đó.
Thình lình Trung sĩ Trung-đội Trưởng ra ám hiệu cho cả Trung đội nằm lẩn quẩn đâu đó chừng 15 cho đến 20 thước là phải lui binh, Bowers nhìn qua Trung Sĩ như cố tìm hiểu, viên Trung-sĩ ra dấu cho hắn phải rút lui không cần giải nghĩa. Người mang máy truyền tin giải nghĩa bằng ám hiệu là ra dấu bằng tay, chỉ chỏ cho hắn biết là phải rút lui về hướng Trung úy Đại đội trưởng vì đây là lệnh Thượng cấp, Bowers chưởi thề loạn xạ, và hắn chán nản vì ám ảnh sợ bị ăn đạn, hắn học đâu được vài chữ tiếng Việt, nên hắn la lên ‘Đi…Đi…’ có nghĩa là cứ tiếp tục tiến quân; hoặc là nằm chờ, chớ đừng trở lại qua đó sẽ bị chết hết cả đám. Hắn vẫy tay ra dấu cho Trung-sĩ tiến tới, nhưng vô ích vì hắn không phải là cấp chỉ huy, Bowers bò trườn tới hàng cây một lần nữa, nhưng rồi cũng phải lẻo-đẻo bò trườn tiếp theo sau đuôi. Có ai hiểu thấu nổi khổ tâm của một người Mỹ không hiểu tiếng Việt trong hoàn cảnh nầy! Trung đội đang lui quân về Đại đội cơ hữu



















  (Lịch sữ là gì nếu ta không căn cứ và góp nhặt những dư luận dữ kiện và phản ứng hiện tại thêm vào đó những nhận xét khách quan? Như “THUA chiến-thuật THẮNG chiến-lược” – Trung tá John Paul Vann phải bị giãi ngủ, nhưng vì thắng chiến-lược nên Permanent Government bỗ nhiệm qua lại VN để trỡ thành tướng dân-sự tương đương ba sao, nhưng lại làm bể sách-lược cuả WIB, nên J.P.Vann phải bị hy sinh, (theo như luật gian hồ là phản đảng) Thật nghịch lý, một nơi xa xôi như thành phố nhỏ xíu Kontum, 3 sư-đoàn BV, cùng 3 Thiết đoàn chiến xa thuộc trung-đoàn 203, không kể pháo bình phòng không và diện địa ... mà không chiếm được Kontum đả bị cô lập từ lâu?
    Theo lộ-trình của tam đầu chế [Harriman, Prescott Bush, Georgew H W Bush] vào ngày ký Hiệp định hoà bình Paris 1973, “Ba thực-thể” hiện diện tại chiến trường VN: Sàigon cờ Vàng, Hà-Nội cờ Máu, và Kontum cờ Xanh Đỏ …Vann đả ỷ vào sự tín-nhiệm của TT Nixon tóm thâu tất cà B-52 (kể cả ưu tiên cho các vùng Chiến Thuật) mà trãi thãm trên đầu quân BV, để đến nổi chỉ có Địa phương quân và Nghĩa quân thôi mà cũng tiêu diệt các chiến xa BV nằm rải rác vòng đai Tỉnh. Đây là điều khó tin nhưng có thật, “Vann phải trả cho cái giá làm bễ sách-lược của P.G”)

-------------------------------------------


     Vann từ trên chiếc L.19 nhìn xuống tuyệt vọng, không thể làm cách nào để tránh khỏi thiệt hại khi đoàn Trực-thăng trái Chuối cứ chàng ràng trước mũi súng của VC. Cả hàng tháng nay, Cán bộ VC đã bỏ biết bao nhiêu công sức để thực tập bắn xuyên táo máy bay lên thẳng và đây là cơ hội nghìn vàng tốt nhất và dễ dàng nhất để VC bắn hạ. Suốt cả các cuộc đổ quân bằng Trực thăng trong mấy tháng vừa qua, có một chuyên viên Cơ-Phi trên Trực Thăng H.21 vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một VC đang quỳ một chân trong tư thế bắn lên Trực-thăng, hắn cố nhắm cho được người Mỹ đứng ngay cửa và cứ như thế mà bắn mãi, dĩ nhiên làm sao mà trúng được vì tốc độ của Phi cơ đang bay. Khi người Cơ phi thông báo cho các Phi hành đoàn đều biết…thì tất cả đều bật lên cười rộ! Có vẽ khinh thường! Nhưng hoàn cảnh nầy thì ai nấy trong phi hành đoàn đều thót-dái lên cần cổ! Nhưng đặc biệt là ngày hôm nay, nụ cười khinh thường ấy sẽ đổi lại bằng một sự lo âu, như tim phi hành đoàn Mỹ muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, khi bay đổ quân ở Ấp Bắc. Vào ngày 20/7/1962, quân đội Miền Nam đã hành quân và tịch thu được tài liệu giảng dạy của Cán bộ Cộng Sản dạy về cách bắn máy bay, tại biên giới Việt-Miên, bằng Đại liên 50 (12ly7) đồng thời sau đó không lâu, họ đổi qua thế dùng súng cá nhân để bắn phi cơ. Và đặc biệt về cách bắn hạ Trực-thăng H.21 trái Chuối thì rất dễ, vì sự to lớn quá kềnh càng, cho nên điều kiện dễ hạ nhất là khi máy bay đang lúc cất cánh cũng như lúc sắp đáp xuống; Kinh nghiệm của một sát thủ chuyên nghiệp bắn hạ H.21 cho rằng: “cứ nhắm vào một phần ba phía trước của Trực Thăng mà bắn thì tất cả đạn đều ghim vào trong đó”.
Người chỉ huy Phi hành đoàn Trực-thăng không chịu nghe lời hướng dẫn của Vann, mà tự ghim trong đầu, và quả quyết rằng: VC ở bìa rừng cây phía Nam vì nơi ấy mới vừa đụng độ, cho nên hắn tự quyết định ở phía Tây tương đối không có địch, trong khi đó ở dưới Ấp Tân Thới, thì thành phần còn lại của Tiểu Đoàn 514 địa phương đang có lệnh tập trung lại, và quyết hạ cho được đoàn Chuồn Chuồn sắt đang bay nhởn nha nhởn nhơ, muốn giởn mặt với tử thần. 10 chiếc trái Chuối rà thấp như muốn đáp gần đâu đó, quả thật không bao lâu, đoàn Trực-thăng bay thấp và hạ dần đến phía rìa cây hàng Dừa tận bờ Tây của Ấp, rồi tuần tự đáp đại xuống hai thửa ruộng ngập nước. Trong khi đó VC thừa thời gian để phối trí lực lượng và quyết tâm bắn hạ cho hết đoàn Chuồn Chuồn lạc lối, bay rà qua rà lại thêm ngứa mắt; Kết quả, tất cả chúng đều bị trúng đạn, vì thân hình quá lớn, nên khắp thân đều bị ghim dấu đạn, nhưng cũng còn bay được, duy chỉ có một chiếc H-21 sau cùng là bị quá nhiều vết đạn nên phải nằm ụ dưới ruộng như con Khủng Long bị ngã qụy trên hoang đảo (xem hình trước trang 331& 333)


     Thế là hai Phi công và hai chuyền viên của Hoa-Kỳ đeo sát theo Đại đội trừ bị, lội bì bỏm dưới ruộng nước.Tuy nhiên có lệnh khẩn cấp là bằng mọi giá phải đem đoàn viên Phi hành nầy ra khỏi vùng hành quân, dù rằng, họ đang được bao quanh bởi quân bạn. Thình lình trơ-trọi một chiếc H.21 quay trở lại để đón bạn, nhưng lại không cứu được ai, mà một mình chịu trận với hàng chục khẩu súng nhắm vào đến đổi phải lại nằm ù tại chỗ, cách chiếc trước chưa đầy 100 thước.
Lại thêm một lệnh khẩn cấp thứ 2 truyền ra, là phải cấp cứu tất cả 2 đoàn viên Phi hành H.21 về Hậu cứ gấp. Vị phi tuần Trưởng-trực thăng võ trang nói trong vô tuyến, để đích thân ông sẽ đi cứu họ; Vann bảo Phi-công L.19 bay thật thấp trên đầu địch và lấy trọng tâm nơi 2 chiếc Trực Thăng bị rớt làm trung tâm bay vòng tròn. Dù rằng Vann chẳng sợ súng đạn, nhưng súng đạn của VC lại sợ Vann nên không dám bắn lên. ‘Đây là một trò chơi chiến tranh rất khôn ngoan củaVC’
Còn đối với Hoa-kỳ lại là 1 bài học vở lòng, ở trang đầu về học thuyết chiến tranh du kích
Vann vô cùng tức giận: “Sao họ (phi hành đoàn) lại không chịu nghe lệnh của mình?” Đúng ra, Phi hành đoàn phải tuyệt đối nghe theo lệnh của vị Tư-lệnh chiến trường, hơn nữa Vann nắm vững tình hình chiến trận, vì ông đã ngồi quan sát trên 2 chiếc L.19 thay phiên nhau bao vùng hành quân từ lúc tờ mờ sáng tới giờ lựng. Nhưng có điều hơi lạ, là Vann biết chắc vị Sĩ quan chỉ huy Phi hành đoàn sẽ không để ý gì đến huấn lệnh của ông, nhưng tại sao Vann không bàn thẳng-thắn ngăn chận hủy bỏ cuộc đỗ quân, hay điều động họ đáp qua chỗ khác, mà trong phóng đồ hành quân đã ấn định? Đây cũng là một bài học đáng kể, nhưng trước sau gì thì Hoa-kỳ cũng sẽ kiện toàn lại cơ cấu chỉ huy, tại chiến trường VN, sự học hỏi về chiến thuật du kích của họ đã phải hy sinh oan uổng cho một số binh sĩ của VNCH. Đó cũng nằm trong kế hoặch về tham mưu của Nhóm Harriman để ép buộc TT Kennedy phải cho quân đội Mỹ tập trận thiệt tại thao trường thật tiển tại Việt Nam
Vị Sĩ quan chỉ huy của Toán Trực-thăng UH.1 đang bay vòng chung quanh trên 2 chiếc trái Chuối đã bị bắn nằm ụ dưới ruộng nước (Phi hành đoàn UH.1-A gồm có 3 người) để tìm kiếm 2 đoàn viên Trực- thăng H.21 đang lẩn quẩn dưới đó, trong khi 4 chiếc Võ trang UH-1C đang nhã đạn và hỏa tiển theo dọc hàng cây quanh đó, để áp đảo VC, đồng thời cũng yểm trợ cho một chiếc UH-1A đáp xuống để cứu 2 Phi hành đoàn H.21. Chiếc HU.1-A của Phi đội Trưởng đang giảm máy làm vòng cận tiến xuống thấp để đáp. Khi chiếc UH.1-A toan đáp, nhưng không biết rõ địch tình, quá tin tưởng vào 4 chiếc Võ trang đang quần thảo áp đảo VC mà quên rằng bên dãy hàng Dừa và ở các bụi Tre-gai, nơi đó có vô số hầm trú ẩn được ngụy trang rất là cẩn thận chắc chắn dưới các gốc Tre bao phủ dưới đó. Lúc chiếc UH.1-A gần như ngóc đầu khựng lại để đáp thì chỉ trong vòng một phút thôi, tất cả xạ thủ của VC đều ra khỏi hầm và tập trung hỏa lực vào chiếc UH.1-A nầy, vô số đạn ghim vào Trực-thăng đến nỗi nó phải lật úp qua bên phải và nằm một đống, cách 50 thước sau 2 chiếc H.21 (xem hình 3 chiếc nằm ụ nơi trang 331, Volume-1)

    Hôm nay VC đã lập được thành tích trong chiến tranh là đã bắn rơi được 4 chiếc Trực- thăng; Chiếc H.21 thứ 3 vì trúng đạn quá nặng nên trên đường về, phải đáp ép buộc xuống trên một thửa ruộng , cách đây vào khoảng 5 cây số về hướng nam, Phi hành đoàn được cứu thoát, bình an vô sự. Du kích của VC đã hồ-hởi khi nhắm vào một đoàn Trực-thăng, gồm 15 chiếc thì có 14 chiếc đã bị trúng đạn, chỉ trừ có 1 chiếc UH.1-C là đã may mắn không trúng viên nào cả! Phi-công Hoa-kỳ chắc chắn đã tởn mặt cho biết thế nào là lễ độ, không còn dám cười khinh-khĩnh khi nghe người Cơ phi thông báo cho họ biết là đã thấy một du kích, trong vị thế quỳ một chân để bắn lên Trực Thăng
Trung Sĩ Bowers, nhún mình đứng dậy chạy phóng tới chiếc UH.1-A vừa mới bị bắn rớt, nước dưới ruộng cạn lấp xấp như kéo chân hắn lại, không cho hắn đến để tiếp cứu đồng đội. Hắn mừng thầm trong bụng, chắc Chúa đánh động hay sao mà hắn được đi chung với một Tiểu đội gan dạ và nhạy bén trong chiến đấu như vậy. Chiếc UH.1-A, nằm nghiêng một đống bên phải như một con quái vật nỗi lên trên hồ nước. Trên cánh đồng ngập đầy nước giống như một cái đập được chấn ngang bằng bờ đê khá lớn, nơi đó tiếng động cơ của Phản-lực gầm thét tức tối vì bị rớt gãy văng ra khỏi buồng máy; Với cái trớn vẫn còn quay của cánh quạt chính, đang bị cong vòng, chém xuống mặt ruộng rời rạc, dẫy dụa oằn-oại như một con quái vật dẫy chết; Bowers đang lo sợ sẽ bị phát hỏa và nổ tung, vì số xăng JP-4 vẫn còn nhiều ở giữa bụng Trực-thăng. Viên Phi-công phụ, ngồi bên ghế trái, chưa hoàn hồn, hắn lui cui mò mẩm để tìm lối thoát ra ngoài, và đang lom khom chạy đến mô đất khá to gần đó để tránh đạn
Bowers la to gọi người Phi-công phụ, nhưng nó cũng chẳng ơi hởi trả lời mà cứ ngồi lì nơi đó như kẻ mất hồn; Hắn thấy không trông mong gì về viên Phi-công phụ nầy sẽ cùng chung phụ lực để lôi đoàn viên ra, vì còn kẹt ở trong buồng lái. Con quái vật hoàn toàn nằm bẹp lún sâu xuống ruộng, nằm nghiêng hẳn về phía trái. Cũng may cánh cửa bên phải đã gãy một phần rơi cách đó không xa mấy. Bowers cố gắng đẩy phần còn lại của cánh cửa, và mở dây nịt an-toàn, lôi mạnh viên Phi công ra, Phi công trưởng đang ở trong trạng thái thẩn thờ, ngớ ngẩn, gần như mất hồn không còn biết gì cả; Ông bị thương ở chân vì lúc rơi ngã về bên phải, nhưng cũng còn lại được chút ít trí khôn để quàng qua vai Bowers, cà nhắc đi vào mô đất cùng với viên Phi công phụ mới vừa thoát hiểm.
Bowers hấp tấp trở lại để cứu viên Cơ-phi, viên Trung-sĩ già, da đen có cái tên trên túi áo là William Deal; Tiếng máy phản lực UH-1 vẫn còn nỗ gầm thét như muốn đe dọa sẽ nỗ tung ra từng mãnh. Trước khi UH.1 rơi, Deal ngồi nai nịt cẩn thận, bắn trả lại với khẩu súng trung-liên trong tay, Bowers nghĩ rằng: chắc khi rơi xuống đất quá mạnh nên hắn bị bất tỉnh và đang ngồi ở vị thế ngồi chổng ngược, theo vị thế khung-phòng Trực-thăng bị vặn uốn cong queo, Bowers nghĩ làm cách nào lôi nó ra trước khi Trực-thăng phát hỏa. Chỉ còn một cách duy nhất là, đi từ trước ra sau; và lôi nó ra ngược lại về phía trước; Bowers đạp mạnh mớ kiếng nhựa vụn bể dỡ dang ở đằng trước trực-thăng, xong ông leo vào trong. Deal vẫn ngồi chổng ngược, nên Bowers cho rằng Deal bị bất tỉnh, vì lúc rơi chạm xuống đất quá mạnh. Chiếc nón bay bằng nhựa cứng và sợi dây nghe đang xoắn tréo vào cổ của Deal trong thế ngồi bị chổng ngược. Bowers gở sợi dây nịt an-toàn, và sợi dây dưới cằm của Deal ra và lột cái nón bay ra khỏi đầu của hắn để không còn vướng mắc khi phải kéo lê hắn ra khỏi Trực-thăng; Trong khi Bowers lột chiếc nón bay của Deal ra khỏi đầu hắn, thì lúc đó Bowers mới phát hiện ra là vì “Ông đang cố gắng hết mình để cứu một người bạn đã chết, mà không sợ trực-thăng phát hỏa!” Deal đã bị một viên đạn khắc nghiệt ghim ngay vào đầu, và chết ngay tức khắc, lổm chổm gần quanh đó có vô số vết đạn ghim thủng.
     Thình lình, tiếng động cơ của phản-lực sau một thời gian gầm thét, giờ thì cũng đã tắt lịm vì đã hết nhiên liệu, (hình đầu của bài nầy, chiếc HU-iA đâm xuống ruộng nước, văng đầu transmission ra xa cách đó khoảng vài chục thước nhưng may mắn không bị phát nổ, khi Bowers vào cứu Phi hành đoàn. Dù sao đi nữa, Bowers cũng phải rán gồng mình kéo lê cái xác của Deal ra khỏi Trực-thăng. Bowers là người nhà quê, khỏe mạnh của Tiểu bang Minnesota, thói đời thường khinh rẽ chê bai người nhà quê nầy nọ, nhưng thử nghĩ có được mấy nhà trí thức, mà làm được những việc như Bowers đã làm? Bowers là người Nông dân nên gân guốc nỗi lên cuồn cuộn; Thuộc thế hệ thứ 3 của dòng dỏi có 2 dòng máu Đức và Do Thái, từ lowa di chuyển qua Minnesota, dòng họ Bowers xuất thân từ công nhân mỏ than ở North Dakota. Bowers cao, khoẻ, vạm vỡ hơn Vann rất nhiều; Còn Vann, chỉ cân nặng có 150 cân Anh, dạng người Mỹ như vậy là quá mảnh khảnh, nhưng cái đầu thì nặng hàng tấn.
Deal, vì quá nặng, nên Bowers ì-à, ì ạch mãi mới kéo được Deal ra khỏi Trực-thăng, sức cũng đã cạn dần, nhưng Ông vẫn tiếp tục, một tay sốc nách, còn tay kia nắm chặt chiếc áo bay màu xám Phi hành của Deal, kéo lê người chiến hữu vắng số qua khỏi phần ruộng nuớc…đến một mô đất cao, để nhập chung với 2 Phi-công đang ngồi bệt trên đó trông như kẻ mất hồn, thình lình có tiếng nổ ì-đùng sau khi nghe tiếng rú, dường như bazooka của VC đang nhắm bắn về hướng mô đất mà Bowers và Phi hành đang cố bám để ẩn núp? Bowers tự nhũ “Sao mình đần độn đến thế, Deal đã chết rồi mà” Mình không thể cứu hắn sống lại được! Và hắn vội thả nhẹ Deal nằm xuống dưới ruộng khô mà lòng vẫn còn bị cắn rứt vì đã không tôn trọng người vắng số; Nhưng có ai nỡ trách Bowers trong hoàn cảnh phải tự bảo vệ lấy mạng sống của mình chứ, dù sao thì Deal cũng đã chết rối, Bowers đang cùng ẩn núp dưới mô đất với 2 Phi-công
Tại Hoa-Kỳ, xuất TV đầu tiên trình chiếu cuộc chiến nóng bỏng tại Việt-Nam, và đứa con trai lên 7 tuổi của Deal, nhà ở Mays-Landing, New-Jersey, nó nhìn thấy được hình ảnh của Cha nó đang tham dự hành quân và bị tử thương. Gia đình Deal, cùng mọi người đang chăm chú theo-dõi truyền hình, khi thấy rõ chiếc Trực-thăng UH.1-A bị bắn rớt, thì thằng nhỏ 7 tuổi thét lên! “Coi kìa, Cha tôi” và nó đã òa lên khóc nghe rất thảm thiết, 6 tiếng đồng hồ sau, gia đình Deal đã nhận được một tin sét đánh, từ Ngũ-Giác-Đài báo về xác nhận Deal đã chết.
Bowers trườn đến chiếc Trực-thăng H.21 thứ 2 bị rơi cách đó không xa, hắn thấy rõ người xạ thủ của Phi hành đoàn đang nằm núp dưới nước sau bánh xe của Trực-thăng H-21, bỗng dưng tiếng rít gió của tạc đạn hỏa pháo Bazooka nỗ đoành cách đó khoảng trăm thước, nhưng chỉ làm nước văng lên tung tóe, hắn hụp đầu xuống bùn trong giây lát rồi lại tiếp tục trườn đến Trực thăng. Người chỉ huy của VC điều động một Tiểu đội chạy dọc xuống hàng cây, song song hướng Bắc của các Trực-thăng bị nằm ụ, và bắn từng phát một những trái phóng lựu đến Trực-thăng, toan phá hũy để làm di tích chiến thắng, nhưng rất tiếc là tầm đạn đạo không đến được, nên chỉ phát nổ lưng chừng hoặc làm bùn nước văng lên tung tóe khi chạm nổ.
     Bây giờ cảnh vật đồng quê trở lại thanh vắng lạ thường, xem ra ngay đến một trái đạn rơi gần nơi đó cũng không thấy; sự thật chẳng qua đây là lần đầu tiên họ xữ dụng súng cối vì trái đạn nầy rất quý hiếm, làm gì họ có cơ hội để luyện tập! Khi Bowers vừa bò trườn tới chiếc H-21 thứ 2 thì tiếng súng hoàn toàn yên lặng đến dễ sợ, Bowers suy diễn một hồi lâu, có lẽ VC đã tìm cách rút lui vì chúng không còn hoả lực mạnh và rút lui để bảo toàn lực lượng, chúng cũng rất khôn ngoan không dại gì chịu bị một trận địa pháo hay phi cơ oanh kích
Người Binh nhất, xạ thủ trẻ đang run rẩy cố dìm thân mình xuống sâu hơn dưới nước bùn một tí nữa để tránh đạn, lấp ló đôi mắt cạnh bánh xe Trực Thăng nhìn về phía có tiếng xào xạc đang trườn tới của Bowers; trông ngoại cảnh như một con quái vật khổng lồ đang dẫm một chân nghiền nát con mồi.
Bowers la to lên như muốn trấn an người chiến hữu cùng một Tổ-quốc đang thi hành chính sách quân dịch G.I “Họ đâu cả rối”
Người lính trẻ thều thào trả lời tiếng được tiếng không: “Phi-công đã bỏ chúng tôi chạy theo Bộ Binh VN rồi!” Vừa nói nó vừa chỉ tay về hướng bờ đê bên trái, nhưng tôi không thể nào bỏ bạn tôi một mình ở nơi đây! “Chỉ là một chiến sỉ quân-dịch G.I mà còn nêu cao tình đồng đội như vậy, không bỏ anh em, không bỏ bạn bè trong lúc nguy-nan nầy, thật cảm động và đáng khen cho tình nghĩa phi hành!
     Bowers ngắt lời hỏi ngay “Hắn đâu rổi!” hắn đang bị thương, tôi không thể trèo lên đem hắn xuống, vì đã nhiều lần tôi toan nhảy lên thì VC bắn vào xối xã nên tôi phải nằm xuống nước núp lại, vừa nói hắn vừa chỉ ngón tay về phía rừng Tre trước mặt. Bowers chỉ tay về phía sau lưng, nơi mô đất mà 2 Phi-công đang núp ở đó và bảo “Anh bò trườn tới mô đất ở đàng kia, núp ở đó chờ Tôi…và anh sẽ gặp Trung-úy Đai-đội trưởng và 2 người bạn anh ở nơi đó!”
Bowers uốn mình, nhanh như chớp phóng lên sàn Trực-thăng, có vài tràng đạn súng nhỏ rời rạc bay đến nhưng rơi lỏm bỏm xuống nước ở đàng xa, trên mặt ruộng nước tạo thành những vòng tròn, giống như vài con cá to đang trồi mình lên ăn móng. Bowers cũng lăn-cuộn tròn trên sàn nhôm, cố đến gần người thanh niên trẻ đang bị thương, hắn bàng hoàng khi nhìn thấy khung phòng Trực-thăng bị vô số mảnh đạn xé nát; Rồi không khí trở nên im lặng một cách kỳ lạ đến khó thở! VC đã bỏ ý định bắn vô ích vào một chiếc Trực-thăng đã nằm ngã quỵ bất động trên ruộng nước tự bao giờ; Cơ-phi Braman như kẻ mất hồn bàng hoàng nhìn Bowers với đôi mắt cầu cứu nơi quới nhân, nhưng trông hắn không có vẻ gì là bị thương trầm trọng. Hắn vừa mới bị trúng đạn khi anh dũng bắn trả hết băng đạn Carbine và đang nạp vào băng đạn thứ 2, khi lom khom cuối xuống thì một viên đạn xuyên qua bả vai bên phải, buộc hắn ngã bật ngữa trên sàn nhôm.
Rốt cuộc, phi hành đoàn H-21, gồm 4 người mà chả giúp gì được nhau Bowers lấy dao rọc cắt chiếc áo phi-hành dài xuống tận lưng của Braman và đang chăm chú nhìn vào tình trạng vết thương để tìm cách săn sóc. Dường như nó không có gì gọi là trầm trọng cho lắm, chiếc áo giáp thì lố nhố nhiều vết đạn của mẫu quốc chế tạo, xa ra khỏi viền áo là 1 viên đạn xuyên qua ngọt ngào dưới cánh xương bả vai để lại một lổ tròn đang rỉ máu. Mọi người lính chiến đấu ai cũng phải được trang bị một loại băng cứu thương, thế nên Bowers chụp ngay băng cứu thương nơi dây nịt của Braman, mở toạc ra úp ngay vết thương, rồi Bowers lấy cuộn băng của mình băng vào lổ sau lưng của vết thương, cuốn quanh nơi cổ và nách để giữ chặt vết thương khỏi bị nhiễm trùng. Rồi thì Bowers đặt nhẹ lưng Braman xuống sàn tàu để giữ vết thương bớt rỉ máu
Bowers đang suy gẩm một hồi lâu, rồi đi đến kết luận, Braman phải ở lại trong long cabin Trực- thăng để được an toàn hơn vì ra ngoài vết thương có thể trở nên trầm trọng, dễ bị làm độc bởi nước bùn quá dơ bẩn khi thấm vào. Bowers ôn tồn giải nghĩa cho người Cơ phi trẻ tuổi và được sự gục đầu hiểu biết của Braman
     Bowers lấy bình nước của mình đưa cho Braman hớp vài ngụm và nằm bên cạnh hắn giây lát để an-ủi qua những câu chuyện tâm tình tự nhiên hơn bao giờ hết, Braman cảm thấy quá gần gủi và thân mật với Bowers. Hắn tâm tình và dường như muốn nhắn nhủ điều gì với Bowers; Braman vói tay qua bên cánh tay không bị thương một cách khó khăn, lấy ra trong bóp một chiếc ảnh vợ của hắn và nói: “Gee, tôi hy vọng sẽ được trở về nước sớm để gặp lại nàng!” Với cặp mắt tin tưởng bao đảm của Bowers: “Đừng lo, anh không đến nổi gì trầm trong...chắc chắn sẽ gặp lại nàng thôi” Bowers nói tiếp cho hắn vững lòng: “Đừng lo, Chúng tôi sẽ tìm mọi cách đưa anh ra khỏi chỗ nầy càng sớm càng tôt!” Và Bowers nói hắn nằm yên nơi đây chờ đợi, Bowers phải rời khỏi nơi đây để tìm cách cứu phi hành đoàn, cũng không xa lắm quanh quẩn đâu đây, hứa chắc không bỏ rơi hắn, Bowers bò trên sàn tàu đến cửa Trực-thăng, và lăn nhào xuống ruộng nước, lại thêm một tràng đạn vô ích, nổ rời rạc bay tới rơi lỏm bỏm xuống nước

Đến giờ nầy vị Trung-úy Đại đội trưởng mới có thì giờ nói được tiếng Anh khi Bowers đến gần ông; Bowers dồn dập hỏi: Tại sao Lieutenent phải cho đại đội dừng quân tại chỗ để ẩn núp bên cạnh sườn phía Nam của dãy hàng cây, chờ pháo binh bắn yểm trở với tình trạng như thế nầy thì quá nguy hiểm khi phải phân tán đại đội để tấn kích vào một mục tiêu mà mình đang ở ngoài đồng trống, trong khi VC có thế đất phòng thủ vô cùng vững chắc; vì thế toàn đại đội phải tập trung lại để chống đỡ nếu chẳng may VC điên rồ bung ra tấn công mọi hướng. Nhưng đây VC không tấn công mà chỉ để bắn sẻ vì Phi-công Trực-thăng đã thả đại đội ngay tầm đạn của địch không hay biết; chỉ có một cách duy nhất và linh động lui quân về sau xa hơn tầm đạn của VC, điều nầy lại xa rời với lệnh hành quân tấn kích chớ không phải lui binh. Hậu quả quân bạn sẽ bị thiệt hại nặng nề do Phi Công dẩn đạo chỉ huy không thèm nghe lệnh của Vann: thoạt đầu VC dùng tất cả hỏa lực để bắn Trực-thăng, sau đó họ tập trung nổ lực tiêu diệt Bộ-binh càng nhiều càng tốt, cho đến khi mặt trời lặn thì mới mon men rút lui dọc theo các mương rạch; điều dễ hiểu rút lui vào ban ngày sẽ bị tiêu diệt lần mòn trên đường rút lui, còn như cố thủ sẽ được các hầm hố đào sẳn cũng như các chướng ngại vật thiên nhiên như các gốc Tre che chở, được bảo vệ an toàn hơn qua bao thế hệ kinh nghiệm chống Nhựt và Pháp
Quả thật, đại đội nầy phải nằm đây chịu trận trong tầm bắn sẻ của VC, một số chết tốt và một số bị thương bởi những viên đạn xuyên qua từ hướng Đông, bên cánh phải bay vút đến trúng vào mông hay phần sườn dưới sau lưng, trong khi cả đại đội đều nằm sát cạnh bờ đê của ruộng nước được che phủ tương đối là khá bảo đảm. Dưới tầm nhìn từ trên không, tôi nghĩ, trong khi Đại đội đang chú trọng về vùng hàng cây trước mặt, phía trước có một con kinh tương đối ở ví trí cao hơn bờ ruộng và đó cũng là điểm thuận lợi cho tầm quan sát và điều chỉnh đạn đạo; mà quên rằng quân du kích bắn sẻ đã leo lên trên các ngọn cây dừa về cạnh sườn phía Đông để bắn sẻ từng phát một, mà quân bạn khó phát hiện từ đâu bắn tới, khiến cho phần lộ diện lú ra, được trông thấy rõ qua điểm cao của bờ đê. Toán VC nhiều nhất ở tuyến hàng cây bờ Bắc đang lên tinh thần vì họ đã khóa chân đại đội Bộ Binh đang nằm trong tầm đạn của chúng, mọi cuộc động binh của đại đội đều bị VC khống chế, Bộ-binh bị lần lượt rụng rơi qua cuộc bắn sẻ của 1 Tiểu đội của VC đang ở vị thế thượng phong là trên các đọt cây Dừa, cây Cau. Và tại sao Trung úy Đại đội trưởng phải cho lệnh nằm thật sát vào cạnh gốc bờ đê chìm sâu xuống ruộng nước để tránh đạn, và một điều vô cùng bất lợi là không có ai dám nhoi người lên lộ diện để bắn trả, hay chỉ đưa nòng súng tựa qua bờ đê bắn trả một cách như lấy lệ giữa sự chứng kiến của VC trên hàng Dừa cao nhìn xuống. Quả thật phi công Mỹ cần tập luyện chiến trận là hoàn toàn đúng trong ống kính của Permanent Government cảnh báo hành pháp Kennedy, “Muốn bảo vệ hoà bình phải chuẩn bị chiến tranh là vậy đó” Chờ gì mà không đem G.I qua tập luyện chiến trận thiệt?
Cuộc chiến Ấp Bắc gây ra không biết bao nhiêu chuyện xích mích giữa TT Diệm và hành pháp Hoa-Kỳ, về cấp giữa thì có Tư-lệnh Sư-đoàn-7 với John Paul Vann, còn dưới cấp nhỏ giữa Trung-úy ĐĐT và Thượng Sỉ Bowers. Trên thực tế thì Bowers muốn liên lạc với Vann trên L.19 để điều động pháo binh cũng như phi cơ oanh kích, giãi tỏa áp lực của địch và cứu phi hành đoàn, vì Bowers tự cho rằng mình đã có khá nhiều kinh nghiệm về ‘tiền sát viên’ cho súng cối 81 ly của một đại-đội chiến thuật, nhưng Trung-úy ĐĐT vẫn không cho vì những tần số nầy phải được thường xuyên liên lạc với Thượng cấp. Cấp nhỏ với nhau thật dễ giải quyết, mặc dù Bowers viện dẫn cũng như hù rằng, pháo binh và phi cơ chiến thuật sẽ cứu họ ra khỏi chỗ nầy, nếu không chốc lát đây VC sẽ tấn công tràn ngập vào Đại đội, nhưng một lần nữa Trung-úy dứt khoát không được (người viết vẫn luôn đồng ý với Trung úy vì đây là trách nhiệm của đương sự) Dầu sao ở cấp dưới từ chối hay đối chọi với Mỹ cũng dễ dàng hơn ở cấp cao, tôi còn nhớ hồi còn làm Phi-đoàn trưởng, tôi đã từ chối không muốn nhận có Cố vấn trong Phi đoàn của tôi. Trong một buổi họp tôi có trình với Đại Tá Cố Vấn Trưởng Surrat tại Sư-Đoàn 1 K.Q, Đà-Năng: “với cấp Thiếu-tá chỉ làm Phi-đội trưởng là cao nhất, thì làm sao có kinh nghiệm để làm Cố-vấn Phi Đoàn) Tôi lập bập lỏm bỏm tiếng Anh: “Have advisor having problem, No advisor no problem” thế là từ đó trở đi phi đoàn tôi không có Cố vấn.
Vị Thiếu-úy tiền sát viên được chỉ định theo Đai đội đang theo dõi liên lạc với hậu cứ tại phi trường Tân-Hiệp, Mỷ Tho. Ông đang nằm cách đại đội khoảng 10 thước; Và cũng đang hướng dẫn tác xạ, truyền chuyển tọa độ về Trung Tâm Hỏa Lực thuộc Bộ Chỉ Huy Sư-Đoàn 7; Thỉnh thoảng những trái đạn hú trên không gian rơi xuống vào những nơi xa về hướng Bắc, trật mục tiêu gần 500 thước, tiền sát viên chủ đích bắn hơi xa, để rồi điều chỉnh kéo lần về hướng mục tiêu, như thế an toàn cho quân bạn hơn, sau khi 8 trái đạn 105 ly nỗ vang dội ngoài ruộng nước, Bowers xỏ miệng xía vào “kéo về Nam 100 thước”, thậm chí còn đòi chụp máy liên lạc, nhưng 2 sĩ quan từ tốn trả lời: “không được chúng tôi đang điều chỉnh pháo binh kéo về mục tiêu ngay dãy hàng Dừa trước mặt” Dầu sao phải thông cãm ở cấp dưới rất dễ dàng giãi quyết với nhau hơn

Hỏa lực yểm trợ hành quân bao vùng gồm có Đai bác 105 ly và súng cối nặng 4.2-inch đang trải dài theo trục lộ phía Nam của cuộc hành quân, Bowers vô cùng nóng ruột muốn liên lạc với Vann trên L.19 và với Ziegler ở Bộ chỉ huy tiền phương Tân Hiệp mà không đươc “làm sao báo cáo tình trạng của phi hành đoàn để Vann cứu họ ra khỏi vùng khói lửa đây” Chắc hắn tức muốn ói máu, nhưng đây là giá phải trả đối với một chính sách trịch thượng của chính quyền nước hắn. Tại sao những lần hành quân trước, hắn không bị một chút trở ngại nào khi mượn vô tuyến của Bộ-binh Miền Nam; Vì thế hắn đinh ninh cũng sẽ được như trước, nên không đem theo máy vô tuyến để liên lạc với những người đồng hương!
Một viên đạn vô tình đã làm trọng thương người lính mang máy truyền tin ở sau lưng, rồi thêm một viên đạn nữa trúng vào máy làm anh chúi mũi chìm xuống vũng bùn không một tiếng rên-xiết; Bỗng chốc xa về phía chân trời từ hướng Bắc, 2 chiếc khu trục AD-6 Skyraider cánh quạt đang hùng dũng bay đến, một hiện tượng cứu nguy đang làm đại-đội nầy lên tinh thần, giờ họ chỉ còn chờ đợi những quả bom chính xác tiêu diệt chúng. Tuần tự từng chiếc một nhào xuống thật thấp để thả bom napalm, nhưng lại không trúng vào mục tiêu như đã ước đoán, Phi công AD-6 lại thả phá hủy dãy nhà tranh mà hồi sáng Trực-thăng võ trang đã oanh kích xong, thay vì mục tiêu chính yếu là chỗ VC núp sau bờ đê của con kinh đào khá lớn. Sau tiếng bùng nổ ấm áp của napalm, sức nóng kinh khủng kéo dài được đôi phút làm nghẹt thở những người ảnh hưởng gần nơi đó; Làm sao VC chịu nổi sức nóng khủng khiếp như vậy; Cả đại đội bừng dậy nhìn hiệu quả của bom napalm mà tự cho rằng cơn nguy kịch đã bắt đầu trôi qua, từng cái chúi mũi thẳng đứng xuống.rồi từng chùm bom, rockets phóng hỏa vào những dãy nhà tranh trong sự hớn hở lên tinh thần cho quân bạn; nhưng thình lình 2 chiến sỉ đứng cạnh Bowers ngã lăng ra chết tốt vì những tràng đạn từ bìa rừng cây trước mặt bắn tới; mọi người lại cùng một lượt, không ai bảo ai, nằm úp mặt sâu xuống bùn để tránh đạn, báo hiệu VC vẫn bám trụ vào những công sự phòng thủ để được che chở và chờ đến đêm tối mới chịu rút lui trong êm thấm.
Bowers cố lỏ con mắt nhìn về phía rừng Dừa, nhưng chẳng thấy có dấu hiệu nào VC chịu rút lui, hoặc động binh đổi vùng, có nghĩa là VC ở lì và cho ăn-thua đủ; Hắn nói với Trung úy ĐĐT như van xin: “cho tôi mượn máy để liên lạc”, nhưng vô ích Vị Trung úy, “tôi sẽ cho khu-trục dội Bom ngay xuống hàng cây trước mặt”
Vann như một tù nhân bị nhốt chặt trên không ở ghế sau của chiếc L.19 quan sát với đầy sự kinh hoàng lẫn giận dữ cùng nỗi thất vọng chán chường, Vann đang nghĩ đến trách nhiệm cứu sống 1 Cố vấn và 3 phi hành đoàn Trực-thăng đang kẹt lại ở dưới vùng lửa đạn, dù họ có chết hay bị thương làm sao Vann biết được, nên sự bồn chồn trong dạ làm thân người của ông đã bé nhỏ càng thêm teo-tắt, xuống sắc vì trách nhiệm đang đè nặng lên ông. Trong khi từ lúc triễn khai cuộc hành quân cho đến giờ quân bạn chưa thấy mặt kẻ đối địch, mà chỉ biết được những loạt đạn từ bìa rừng Dừa trước mặt bắn tua tủa về hướng Nam vào Đại đội đang núp; và rời rạc vài viên đạn bắn sẻ từ trên ngọn cây Dừa, Cau bắn xuống vô chừng khó phân định được hướng. Suốt cả ngày hôm nay, quân bạn chỉ thấy được 1 tên du-kích chạy băng ngang hàng cây về phía bìa Nam, có lẽ tên giao liên đưa tin; và sau đó 2 tên du-kích bên kia bờ kinh đào chạy thoáng qua để đổi vị thế.
Ngay sau khi chiếc UH-1.A bị bắn rớt, Vann kẹp chiếc máy truyền tin không lớn lắm vào hai bắp vế, gọi ơi-ới trên những tầng số đã điều chỉnh sẳn để chuyền lệnh cho Đai-úy James Scanlon và Robert Mays. Scranton người Sĩ quan gương mẫu và can đảm luôn luôn thích thú với chi-đoàn M-113 hành quân ngoài mặt trận, thật ông xứng đáng là Cố vấn của Lữ đoàn thiết kỵ do Thiếu-tá Lâm-Quang-Thơ kiêm Tiểu-khu trưởng Mỹ Tho chỉ huỵ. Dù rằng làm Cố vấn cho Lữ-đoàn nhưng ông lại luôn tham dự bên cạnh Chi-đoàn của Đại-úy Lý Tòng Bá
Vann bấm máy kêu gọi: “Walrus, đây là Topper Six, gọi...trả lời” Ông ép ống nghe sát vào tai để nghe được rõ hơn, mắt dáo dác trông ngóng sự trả lời của Đai-úy Mays hoặc Scanlọn. Bỗng có âm thanh rồ rồ trong tai Vann: “Topper Six, đây Walrus, tôi nghe 5/5 trả lởi” Vann hiểu ngay tiếng nói của Scanlon (Walrus là danh-hiệu của Cố-vấn Mỹ đi trên M-113) Hắn tiếp tục với giọng nói run rẩy như linh tính, chờ một tin xấu sắp được Vann cho biết. Trong hơi thở nóng hổi dồn dập, Vann trả lời: “Walrus đây Topper Six, Tôi cho anh biết, tôi đã được 3 lần báo cáo rằng: 3 chiếc Trực-thăng bị bắn rớt tại vùng hành quân cùng với 1 đại đội đang bị sa lầy trong tầm đạn của VC, ở tọa độ X.S 309539, tôi lập lại X.S 309539, Walrus nhận rõ chưa trả lởi” Khi biết chắc rằng Scanlon nhận được, Vann tiếp tục: “Nói với người chỉ huy M.113 (đại-úy Bá) điều động tất cả con Cua chạy thẳng về đó, và phải cho Ông ấy biết rằng, đây là trường hợp vô cùng khẩn cấp”
Scanlon mau mắn trả lời “Topper Six, Walrus đã nhận rõ… hết” Đồng thời Vann cũng đáp lại “Topper Six...hiểu…chấm dứt,” liền sau đó Vann ra lệnh cho Phi cơ L.19 bay xuống thấp về chỗ 3 chiếc Trực-thăng bị rớt, ông cũng thấy được Ðại đội đang dàn ngang sau con kinh đào, nhưng không có ý định toan tính tiến về phía hàng cây phía Tây của Ấp Bắc, vùng vừa bị đạn và bom napalm đốt cháy sạch. Người chỉ huy VC ra lệnh rán cố gắng hạ cho được chiếc Phi-cơ quan sát L-19 để cho có đủ loại Phi cơ hòng khoe với thế giới. Mỗi lần L.19 bay sà ngang, VC đợi vừa lướt qua là nổ súng vói ngay phía sau đuôi, như thế Phi công không biết chúng ở đâu, nhưng nhờ vào những viên đạn lửa nên Phi-công cũng biết để cố tránh. Người Phi-công Hoa-kỳ lái chiếc L.19 cũng rất gan dạ, ông sà xuống hơn chục lần trên đầu quân bạn để nắm vững tinh thần cũng như 3 phi hành đoàn Trực thăng đang chờ cấp cứu, nhưng mỗi lần sà xuống như vậy đều khác hướng. Dĩ nhiên tốc độ phải gia tăng để tránh né tránh tầm đạn của địch, chiếc L.19 nhào qua nhào lại không biết bao nhiêu lần mà không trúng dù chỉ một viên đạn, có lẽ L.19 quá nhỏ?
Khi chiếc L.19 lấy cao độ, thì Vann nghe được trong vô tuyến tiếng của Scanlon:
“Topper Six, tôi có vấn đề trở ngại, người chỉ huy M113 không chịu điều động mấy con Cua đến vùng hành quân” (Đại-úy Lý Tòng Bá)
Vann sau một hồi chưởi thề tùm lum, ông tiếp “Họ có biết đây là trường hợp khẩn cấp không, nếu trái lệnh sẽ bị ra toà án quân sự” Scanlon đáp ngay: “Topper Six, tôi đã mô tả tình trạng khẩn cấp y như Topper Six đã nói, nhưng họ đáp lại vắn tắt có vài chữ: “Tôi không được quyền nhận lệnh của người Mỹ!” (Thiếu tá Thơ ra lệnh cho Ðại-úy Lý Tòng Bá theo chỉ thị của TT Diệm?)
Vann đáp lai: “Tôi sẽ liên lạc Walrus sau”, rồi đổi qua tần số của Ziegler tại Tăng-lều chỉ huy ngay phi trường Tân-Hiêp. Ra lệnh cho Ziegler phải mau gặp Đai-tá Đạm ra lệnh cho Đai-úy Bá đem các con Cua vào vùng hành quân gấp, tình trạng nầy không thể chậm trể được. Nhưng trên thực tế nhờ có máy móc theo-dõi, nên nơi Tăng lều chỉ huy tại Tân Hiệp, tôi đang túc trực hành quân nên được biết mọi việc vừa xãy ra; Vài phút sau, Zeigler trả lời cho Vann biết rằng, Đai Tá Đạm đã đồng ý và đang ra lệnh bằng hệ thống truyền tin của Sư-Đoàn
Chiếc L.19 của Vann đang bay vòng chờ trên 1000 bộ thuộc vùng Ấp Bắc, không ngoài mục đích đánh dấu nơi vùng đang hành quân, tuy nhiên sau một hồi, Vann lại ra lệnh cho Phi-công bay đến 13 chiếc M.113 đang chuẩn bị tiến đến vùng hành quân, liền tức khắc, Vann đổi qua tần số gọi Scanlon, chú trọng đến đám khói trắng những nhà lá vừa bị Trực-thăng võ trang bắn cháy, cứ theo đám khói trắng đục đó mà nhào tới. Chắc giờ nầy Đại-úy Bá đã nhận được lệnh của Sư-Đoàn rồi thì phải! Mau mau chạy nhanh về mục tiêu, Scanlon có trách nhiệm thúc dục người bạn của mình lời cảnh báo của Vann
Ngay sau khi nhận được lệnh, Đai-úy Bá cho Thiết đoàn chạy thẳng đến Áp Bắc, nhưng gặp trở ngại trước mặt là con kinh với bờ đê quá cao, dòng suối hơi sâu và con sông uốn khúc, đó là những chướng ngại vật chính mà những con Cua phải vượt quạ; M.113 có thể lội qua sông không khó lắm, nhưng những mắc xích có thể bị trượt qua trên những vùng đất bùn mềm nhuyễn trước khi lội qua bờ kinh bên kia, lại thêm một lần nữa phải lên một dốc đứng, với sức nặng 10 tấn í-ạch có thể bị lật úp (vì sự cố-ý không trang bị và tháo gở ra khỏi hệ thống lội sình, cũng như bức chống đạn trên M-113) Rồi một Đại đội tùng thiết phải nhảy xuống chặt những bụi cây, thân cây lót xuống vũng sình; tuần tự từng chiếc một chạy qua, sau cùng là một chiếc M.113 phải kéo theo sau một chiếc mắc dịch bị hư, để cuối cùng tất cả 13 con Cua đã qua được bên nầy con kinh; nhưng đã giết thời gian hơn 1 tiếng đồng hồ (đây là ý đồ của P.G muốn cố tạo ra sự trì trệ để kích thích phía Việt Cộng lên tinh thần chiến đấu tự tồn để kéo dài chiến tranh, còn phía chính phủ Saigòn cần phải nhờ vào sự giúp đở của đơn vị tác chiến Mỹ sẽ nhảy vào vòng chiến trong tương lai, trong khi xa lộ Harriman (đường mòn Hồ) CSBV đang chuyển vào Nam lên đến cấp Trung-đoàn hoàn chỉnh)
Đại-úy Bá có lý do để thối thác cũng như không tán thành về sự hấp tấp can thiệp của Chi-đoàn M-113 của ông vào trận chiến, vì nhiều trở ngại do chướng ngại vật gây ra, mà trong khi đó cũng có 1 Đại đội, sao không xử dụng, 1 đại đội có sẳn gần nơi chiến trận, và sau đó Đại đội thứ 2 và 3 lại đáp gần vào mục tiêu hơn vì đã trể quá 2 tiếng rưởi sau. Sao không xử dụng 3 đại đội nầy để ứng phó mà phải hấp tấp thiếu chuẩn bị xử dụng chỉ 1 Đại đội Tùng thiết nẩy; Scanlon vô cùng ngạc nhiên khi tìm hiểu sự thối thác tiêu cực của Bá, ghi sâu vào tâm tưởng người Mỹ rằng Sĩ quan VN quá cẩn thận nếu không muốn nói là Thỏ đế!? Lý Tòng Bá và Scanlon là 2 chiến hữu cùng cấp bậc cùng tuổi tác (Bá nhỏ hơn Scanlon 10 tháng) họ chiến đấu vì chung một lý tưởng chống Cộng, nhưng họ lại đối chọi với nhau trên quan điểm chiến thuật. Nhưng về quá trình chiến đấu thì Scanlon không xứng đáng là học trò của Bá; Hồi thời Pháp thuộc, Bá đã từng nắm giữ chỉ huy Chi-đoàn xe bọc thép, tốt nghiệp trường Thiết giáp nỗi tiếng của Pháp, Saumur nằm trong thung-lủng của dòng sông Loire; rồi thì vào những năm 1957-1958, Bá lại tốt nghiệp trường Thiết Giáp ở Mỹ ở Fort-Knox, Kentuckỵ
Scanlon lại càng ngạc nhiên hơn bởi ví chưa bao giờ Bá do dự khi thi hành những cuộc hành quân có VC trước mặt, Bá không những không do dự mà tiến thẳng đến mục tiêu không cần đo lường sức địch; nhưng lần nầy là một điều rất lạ có lẻ đả có lệnh của TT Diệm, mà Scanlon phải đặt nhiều câu hỏi. Chiếc M113 được xem như là vô địch với hỏa lực cũng như sự di động trên mọi thế đất tương đối linh hoạt đưa địch quân vào vị thế bị động; nếu VC có đại bác không giựt 57 ly thì mới là mối đe dọa, nhưng làm sao chịu nổi hỏa lực của Đại liên 50 (12,7 ly) có tầm đạn đạo khá xa, trước khi đạn Đại bác ở trong phạm vi tầm tác xạ hữu hiệu, thêm vào đó súng phun lửa là một lý do sợ hãi của đối phương; trong Thiết-giáp xa còn có 1 Tiểu đội Tùng thiết với trang bị hỏa lực khá mạnh bằng những trung liên Bars và đại liên M.30. Bá luôn luôn tự hào là chi-đoàn M113 là sức mạnh vô địch khống chế VC dù bất cứ thế ở đất nào, như ngày 18/September/1962 vừa qua, Bá đã chứng minh đơn-vị ông đã tiêu diệt khá nhiều và bắt sống vô số VC trội hơn cả đơn vị nào trong Sư-Đoàn 7
Vậy thì đâu có gì mà Scanlon khó hiểu, người lính VNCH không muốn người Mỹ chỉ huy và điều động đơn vị của đất nước mình, không muốn trở thành một công cụ bù nhìn, chỉ đơn giản có thế thôi, sự thiếu phối hợp là do bất đồng quan điểm trong cuộc chiến đấu chống Cộng. Vì thế, dựa vào chỗ đứng chính trị, Bá thẳng thừng tuyên bố ra mặt không muốn đến và hãy để cho Bộ binh hiện diện can thiệp trực tiếp vào chiến trận.
Đích thân Bá và Mays bỏ chân xuống đi bộ đến bờ đê thứ hai mới phát hiện bên ấy dốc bờ đê khá cao có thể M.113 khó vượt qua đươc; Nơi đây, hai ông dự trù phải tốn ít nhất là 2 tiếng đồng hồ mới lội qua được bờ đê, Bá dựa vào thế đất như vậy với mưu toan trì hoản để chờ lệnh trên điều động Tiểu đoàn Bộ-binh đến can thiệp, như vậy còn mau hơn. Trong khi đó Scanlon và Mays kêu gọi bản năng cứu người, để mong Bá mau chóng đem quân đến giải cứu Phi hành đoàn và 1 Đại đội bị H-21 thả vào tử địa, có thể bị VC tràn ngập vào bắt sống hoặc tiêu diệt trọn gói. Trong khi đó ở trên không, Vann vòng tròn sốt ruột hối thúc cả 3 người, như muốn dùng gậy chỉ huy gõ lên đầu Scanlon và Mays bảo áp lực Bá mau mau di chuyển đến trận tuyến
Bá tiếng Anh khá vững nên ông đã thấu hiểu hết mọi chuyện đối thoại giữa Scanlon và Vann qua ống loa của máy phát tuyến và khi cần trả lời, Scanlon cứ việc bấm nút là phát thanh được ngạy; Cả 3 đều có thể đo lường được sức giận dữ của Vann đến chừng mực nào qua những lời nói hằn học gằn từng tiếng Vann quở trách: “Tôi đã nói với mấy người nhiều lần mà mấy người làm ăn chả ra cái quái gì!” Vann tiếp: “Tại sao mấy người không đá đít cái con Chó đẻ đó tiến tới…Cái con Chó đẻ đó đã nhận được lệnh của cấp trên rồi…thì còn chờ đợi gì nữa” Bá tức giận nhưng cố dằn
Scanlon bèn cằn nhằn cố chạm vào máu anh hùng của Bá, “Bá! Anh sợ VC ở đàng kia hay sao mà không chịu tiến tới” Bá bực dọc trả lời: “sức mấy mà sợ chúng!” Scanlon: “vậy tại sao anh không cho tiến quân!” Bá đang ôn-tồn trả lời: “Tôi đang tìm một con đường khác, tương đối dễ vượt qua hơn là ngồi đây để bàn cải 2 con kinh xếp hàng trước mặt!”
Cái mũi của Vann dán kín vào cạnh máy truyền tin, cất cao giọng: “Chúa ơi! Như vầy là không thể nào tha thứ được! Cái thằng khốn nạn đó (Đại úy Bá) nó có đại liên 50 mà sợ hãi một nhúm VC với súng nhỏ! Bộ thằng nầy dở chứng sao mà kỳ lạ vậy, tôi sẽ nói cấp trên bỏ tù nó”
Với một giọng trầm buồn như hối tiếc, Scanlon đáp lại: “Topper Six, chúng tôi đang tìm mọi cách, cố gắng hết mình!”
Vẫn còn cái giọng nói khó chịu: “Walrus…các anh cố gắng cái con mẹ gì mà dở như cức! đây là trường hợp vô cùng khẩn cấp, quân bạn đang nằm trong tầm đạn của đich, tôi muốn anh bằng mọi cách phải đá đít cái thằng Chó đẻ đó để buộc nó mau mau tiến tới…anh có làm được điều đó không?”
Scanlon rất lấy làm ngạc nhiên, ít thấy Vann bực bội nóng nãy như vậy, mà hôm nay văng tục nhiều quá; Hắn có thể hình dung được một tù nhân bị nhốt chặt sau ghế lái của chiếc L.19, đang nghiến răng giận dữ mà lại kêu Chúa ỏm tỏi, gương mặt đỏ ngầu như… người say rượu, máu tụ xuống nơi cổ,…như bị rám nắng mặt trời từ tờ mờ sáng cho đến giờ, …như con Gà đang hăng-xung đá độ, sừng sỏ, những sợi giây gân quanh cổ đang nỗi phồng lên vì điên tiết. Còn Scanlon, con người đầm tính, nhưng trước hoàn cảnh nầy, hắn không nghĩ rằng, Vann dồn vào tội lỗi nơi hắn và Mays, Vann nỗi nóng là có lý do riêng của ông mà không thể kềm hảm được: “Lính Việt đâu có bao giờ nhận chịu sự chỉ huy của người Mỹ, mà người Mỹ thì biết con mẹ gì là chiến tranh du-kích!” Tinh-thần thiếu phối hợp là yếu tố chính của sự thất trận (P.G muốn có rắc rối về phối hợp chỉ huy để hành pháp Kennedy phải cho G.I tập trận tại VN và tái tổ chức quân đội phải ứng xử mọi tình huống chiến tranh du kích)
Về cá nhân của Đại úy Bá, thì ông xem 2 ông Cố vấn nầy chẳng ra cái thá gì, nhưng vì lịch sự ông ôn tồn hợp tác và chính 2 người Mỹ nầy cũng đồng quan điểm với Bá là điều động Bộ-binh có mặt ngay trận tuyến đã nhanh hơn và không bị chậm trệ. Bởi lẽ dễ hiểu là Vann không phải là Sĩ quan Thiết giáp nên chẳng hiểu tý gì về Xe bọc thép M.113; Làm sao M.113 di chuyển đều đặn và đúng giờ đến mục tiêu, khi phải vượt qua biết bao nhiêu con kinh đào khá lớn, mà từ đây đến Ấp Bắc vẫn còn phải qua nhiều kinh đào như vậy. Nhưng khổ nổi, Vann đã không hiểu tí gì về Thiết giáp mà khi giận thì mất khôn càng chả hiểu gì cả; Scanlon, mong Chúa đánh động cho Vann đủ sáng suốt để dùng phương tiện cấp cứu khác nhanh hơn như đúng nghĩa chữ cấp cứu, chớ vẫn duy trì ý định như thế nầy, thì sự thất bại thảm hại sẽ phải xãy ra. Nhưng tất cả sự lủng củng nầy đều nằm trong vị thế đã tính toán của Nhóm học giả hầu buộc hành pháp phải đem quân đội Mỹ qua Việt Nam thực tập; Cho nên có một điều ngộ nghĩnh, ở cách đó gần nữa vòng trái đất, có một bộ Óc và con mắt tinh vi, siêu-đẳng đang nhìn biết được những hiện tượng trên sắc mặt điên-dại của một tù nhân [Vann] bị nhốt ở ghế sau trên L.19 như thế nào! Nên chỉ mỉm cười, gât gù tự đắc, vì đây là mưu-kế chính họ đã sách động dựng lên; Chỉ hai chữ ’Cố-vấn’mà Siêu-Chánh Phủ đã chủ trương thai nghén từ lâu vì mục tiêu quyền lợi riêng tư. Họ thừa hiểu rằng người thi hành chính sách qua trách nhiệm “Cố-vấn”sẽ hoàn toàn thất bại vì lẻ: thứ nhất, chưa hiểu gì là chiến tranh du kích; thứ hai, với chức vụ Trung-tá, chỉ cao lắm là nắm giữ Tiểu đoàn và chưa bao giờ chỉ huy Trung-đoàn thì làm sao đủ tài Cố vấn Sư-doàn, mà đây là chức vụ Tư lệnh chiến trường đòi hỏi có tài thao lược điều họp liên quân, gồm Bộ binh, Thiết giáp, Pháo binh, Không-quân .. Họ cũng dư biết Vann, chỉ có khả năng lái M.113 chớ không tài nào vác nổi chiếc M.113 lên vai, như vậy là để con Trâu trước cái cày với chủ đích của P.G? Nhưng đây không phải là chính sách trịch thượng mà họ cố tình tạo dựng một “quái-thai cần thiết”cho nhóm Bác sĩ và Y-tá (tập đoàn công-ty) có cơ hội khai triển tài năng, nhưng không cho dụng cụ dao-kéo để giải phẩu. Sự bại trận của Vann, dĩ nhiên trên phương-diện quân sự, phải bay chức hay giải ngũ… nhưng đây lại thêm một điều rất ngộ nghĩnh là Vann lại lên chức một Tướng lảnh Dân-sự ba sao theo sự ban thưởng của P.G (xin xem hình trang 330, Volume-1)


(Còn tiếp)

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.